Theo tài liệu của một người chuyên viết về lai
lịch các bài thánh ca là Kenneth W. Osbeck, thì hồi còn trẻ, John Newton
làm thủy thủ trên một con tàu chuyên đi băùt các thổ dân miền
Tây Phi châu đem bán làm nô lệ. Nhưng từ khi thoát chết sau một
trận bão dữ dội, John Newton cảm thấy như là tiếng Chúa cảnh cáo,
ông sợ hãi và đã rời bỏ cái nghề bất lương kia. Ông bắt
đầu đọc cuốn The Imitation of Christ, Noi gương Chúa Kitô, của Thomas à
Kempis. (Ta gọi là Sách Gương Phúc.) Cuốn sách đã làm con người
ông thay đổi hẳn đến độ ông chỉ muốn theo học để được rao
giảng Lời Chúa . Và vào năm 39 tuổi, ông đã được toại nguyện
: ông dược phong chức Giáo sĩ của Anh giáo, tại Olney, một làng
nhỏ gần Cambridge, nước Anh .
John Newton đã soạn nhiều bài thánh ca, sau gom lại
thành một cuốn đặt tên là Olney Hymns, trong đó có bài Amazing Grace .
Bài này viết theo thể loại Hymnus. Thánh Augustino
gọi Hymnus là " bài hát có lời ca ngợi Thiên Chúa" (cantus
cum laude Dei). Tự điển Anh-Việt hay Pháp-Việt dịch Hymn hay Hymne là
tụng ca, tán ca, thánh ca. Nhưng có lẽ ta nên gọi theo Linh mục nhạc
sư Tiến Dũng là ù:" Bài ca chúc tụng " vì đúng với nội
dung của thể loại thánh ca này.
Bài ca chúc tụng "Amazing Grace" là một bài
hát ngắn, chỉ có 4 câu, gồm 16 nhịp tất cả, theo mô hình
AABA : các câu 1, 2 và 4 đều giống nhau chỉ thay đổi
vài nốt cuối , câu 3 thì khác hẳn.
Bài ca nằm trong một âm vực trung bình, chuyển
động theo những quãng vừa phải, trong khoảng 8 nốt, từ nốt Re
(thấp) đến nốt Re (cao), nên rất thích hợp để hát cộng đồng .
Nếu muốn soạn bè để hát hay viết bản đệm đàn thì cũng không
đến nỗi phải mất nhiều giờ, nhiều công.
Tiết điệu của bài nhịp nhàng, bình thản mà trang
nghiêm. Tác giả không ghi rõ hành âm, nhưng thường được hát
vừa phải (Moderato) hoặc hơi chậm một chút (Andantino); nếu chậm thì
bài sẽ trở nên nặng nề, mà nếu nhanh thì sẽ làm giảm bớt vẻ
thành kính . Bài ngắn nên từ đầu đến cuối không có chỗ nào
ngắt, nghỉ . Chỗ láy hai nốt ở câu 1, 2, 4 có vẻ lạ tai û, hiếm
thấy trong những bài thánh ca dù là tiếng Việt hay tiếng Anh. Trong
mô hình AABA, câu 3 dĩ nhiên là khác hẳn
những câu kia, nhưng điểm đáng chú ý của câu 3 ở đây là nó
gồm 2 vế , tiết điệu giống nhau, mời gọi, ứng đối nhau , tựa như
2 vế tiểu đối trong câu thơ Việt nam vậy: Si Re. . . .Si Re Si Sol / Re Mi.
. . .Sol Sol Mi Re. Điểm khác nữa là trong khi những câu kia đều bắt
đầu bằng một bước-quãng-bốn-đúng, Reà
Sol, để tới chủ âm, vững chãi, an toàn thì câu 3 lại bắt đầu
một cách dịu dàng, thanh thản bằng một bước-quãng-ba-thứ , Sià Re , đi tới át-âm. Mà át âm Re ở đây lại
nằm ở vị trí âm thanh cao nhất trong bài , thành ra dòng nhạc bỗng
vươn lên cao vút, mênh mông một cách cách kỳ lạ, dường như khác
hẳn với âm thanh cùng cao độ ở cuối câu 2 . Câu 3 cũng khéo léo
đưa dòng nhạc từ chỗ cao nhất xuống đến chỗ thấp nhất để câu
4 có thể làùm nhiệm vụ kết thúc một cách tự nhiên. Những
chỗ láy Re-Si, Re-Si ở vế trước và Mi-Sol, Sol-Mi ở vế sau, thật
độc đáo tài tình, hát lên có sức thu hút rất mạnh vì nghe vừa
duyên dáng lại vừa kính cẩn, trang nghiêm. Chính hai vế nhạc của
câu 3 đã làm tăng hẳn giá trị của bài này cũng tựa như hai con
mắt sáng, đẹp trên một khuôn mặt kiều diễm vậy.
Tóm lại, bài ca này tuy ngắn, dòng nhạc lại rất
đơn sơ, nhưng giai điệu thật hấp dẫn, lôi cuốn, nên trải qua mấy
trăm năm mà càng ngày nó càng được ưa thích.
Lời ca của Amazing grace gồm 4 khổ thơ, mỗi khổ 4
câu.
Nội dung của bài rất phù hợp với giáo lý
Công giáo. Tác giả dường như có ý nêu lên những cảm nghiệm
riêng của mình về tình yêu thương không bờ bến của Chúa để
rồâi gián tiếp nhắn nhủ chúng ta rằng: Chúa lúc nào cũng là
Người Cha nhân hậu, đầy lòng thương xót, luôn ban cho ta những ân
sủng dồi dào. Mà nếu ta có lỡ lỗi phạm thì Chúa cũng sẵn sàng
tha thứ miễn là ta quyết tâm quay về với lòng thống hối, ăn năn.
2 khổ đầu ám chỉ thời gian tác giả còn
"lạc đường, mù tối", chạy theo nghề buôn bán nô lệ . Ta
không thể không xúc động khi nghe tác giả nói: " Ơn Chúa đã
cứu vớt một kẻ cùng khốn như tôi. Tôi đã có lần lạc mất
nhưng nay tôi được tìm lại, tôi đã mù lòa nhưng nay tôi đã nhìn
thấy. "( Khổ I ). Ông tin là Chúa đã dùng một cơn bão lớn
làm cho ông hoảng sợ, phải nghĩ đến những tội lỗi vì đã làm
cái nghề bất lương kia để rồi hối hận quay về nẻo chính. Khi đó,
ơn Chúa đã đến, mang lại bình an cho tâm hồn ông. (Khổ II).
Hai khổ sau diễn tả sự tin cậy , phó thác của
ông nơi Chúa. Nhưng muốn tìm về với Chúa nhiều khi không phải là
chuyện dễ dàng, vì phải vượt qua được những hiểm nguy, gian khổ
vả cạm bẫy nữa. Rồi ơn Chúa sẽ ở với ta mọi nơi, mọi chỗ,
giúp ta luôn được bình an trên đường về quê nhà.
Từ ngữ khá chọn lọc , lời lẽ trau chuốt ;
vần gieo gián cách, rất đẹp. Trong câu thứ hai , mấy chữ " a
wretch like me vừa gợi hình vừa biểu lộ sự thành thật, khiêm
tốn của tác giả, nhưng không biết có phải vì mấy chữ đó nghe bi
thảm hay sao mà có sách đã ghi một câu khác kèm theo câu trên để
người hát tùy ý chọn mà vẫn giữ được ý chính và giữ
được vần với câu thứ tư (free see) :
Câu trong nguyên tác: That saved a wretch like me !
Câu nếu muốn có thẻ chọn thay câu trên: That
saved and set me free !
Để diễn tả sựï khác biệt giữa người mất
ơn Chúa với người có ơn Chúa , tác giả đã khéo léo nêu lên
hai ý tưởng trái ngược trong câu thơ thứ 3 : lạc mất (lost) <-
-> được tìm lại (found) và hai hình ảnh tương phản trong câu 4 :
mắt mù (was blind) <- -> mắt được sáng lại ( now I see); dĩ nhiên
ở đây phải hiểu theo ý nghĩa siêu nhiên.
Tóm lại, xét về cảû hai mặt nội dung và hình
thức , ta có thể nói Amazing Grace đúng là một bài thánh ca có giá
trị.
Trong thể loại Hymnus, có một thói quen đã trở
thành gần như một quy luật là khổ thơ cuối cùng được dùng để
ca tụng Chúa Ba Ngôi. Không biết có phải vì lý do này hay không mà
vào thế kỷ 19 , người ta đã thêm vào một khổ thơ nữa tức là
khổ thứ V với nội dung chúc tụng Chúa như sau:
When weve been there ten thousand years,
Bright shining as the sun,
Weve no less days to sing Gods praise
Than when wed first begun.
Nhiều sách ghi tác giả khổ thơ trên đây là John
P. Rees, 1828-1900, nhưng một số cuốn chẳng hạn như quyển thánh ca song
ngữ tựa là Unidos en Christo-United in Christ thì lại để là anonymous
(nặc danh).
Khi cuốn Olney Hymns vừa mới được phát hành,
thì bài Amazing Grace đã nổi tiếng ngay, và về sau đã được đón
nhận nồng nhiệt không những tại nước Anh mà còn ở các nước
khác, không những trong các thánh đường Anh giáo mà cả trong các
nhà thờ Tin lành khác và trong các nhà thờ Công giáo nữa.
Ngay ở Hoa kỳ, hầu như tuyển tập thánh ca nào
trong các nhà thờ Công giáo và Tin lành cũng đều có bài đó. Ta
cũng hay gặp bài này trong những cuốn CD hay cassette về thánh ca nữa.
Lời Việt của bài này cũng gồm bốn khổ, tuy
không phải là bản dịch nhưng diễn tả cùng một nội dung là ca tụng
và tri ân tình thương vô biên của Chúa dành cho loài người. Chính
Chúa Giêsu là Chúa chúng ta đã dùng dụ ngôn Người Cha nhân hậu
để nói về tình thương đó. Còn Thánh Phaolô thì viết về lòng
quảng đại bao la của Chúa như sau:
"Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ
xuống trên anh em mọi thứ ân huệ để anh em vừa được luôn đầy
đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện."
2.Cr 9,8 .
Thánh Tông đồ còn quả quyết là không những
Chúa ban cho ta đủ ân sủng để xa lánh tội lỗi mà còn ban cho dư
thừùa nữa. Đây là câu Ngài viết cho các tín hữu Rôma:
"Lề luật đã xen vào, để cho sự sa ngã lan
tràn; nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng
chứa chan gấp bội." Rm 5,20 .
Tiếng Việt có dấu giọng nên đôi khi sự luyến
láy gặp khó khăn. Vì thế, ở đây mỗi từ chỉ đi theo một nốt
nhạc, chứ không có chỗ nào một từ láy hai nốt như mấy âm tiết
tiếng Anh nơi ô nhịp 2,6,10,12 và 14, và do đó cũng không thể giữ
được trọn vẹn cái vẻ đẹp của dòng nhạc như khi hát lời tiếng
Anh.
Khổ IV của lời Việt cũng dùng để bầy tỏ
những tình cảm tin cậy, yêu mến,tạ ơn, ngợi khen, chúc tụng Chúa
Ba Ngôi như thói quen trong thể loại Hymnus.
Cho đến nay, bài thánh ca Amazing Grace không những
được hát trong các nhà thờ và được thu băng, vô đĩa hát
nhạc đạo, như đã nói ở trên, mà còn được các ca sĩ hay ban
nhạc ngoài đời trình diễn trên sâu khấu và sau đó có khi còn
chiếu lại trên tivi nữa. Tại Hoa kỳ thỉnh thoảng ta cũng được
thưởng thức bài thánh ca bất hủ này trong những chương trình ca
nhạc chiếu trên băng tần KCET hoặc KOCE. .
Vào năm 1998, một album ca nhạc có tên là Voice of
an Angel Tiếng hát của một Thiên thần- của Charlotte Church, đã
đạt được hai điã bạch kim ở Anh và một đĩa bạch kim ờ Mỹ và
đã đem Charlotte lên hàng siêu sao. Năm đó cô mới 12 tuổi. Album
này có tất cả17 bài. Vàø một trong 5 bài mà Charlotte thích nhất
đó là Amazing Grace. Bài này, cô chỉ hát những câu 1,2,4,5 thôi. (
Album này không phải chủ yếu là thánh ca, nhưng ngoài bài Amazing
Grace, còn có mấy bài khác thuộc loại thánh ca, là Pie Jesu, Panis
Angelicus, Thánh vịnh 23, Ave Maria, và Kinh Lạy Cha , được trình bày rất
trang trọng, kính cẩn.)
Chính cái vị trí đặc biệt của bài thánh ca
Amazing Grace nơi các đĩa nhạc và sân khấu ngoài đời cộng với
sự ưa thích nó trong những nơi thờ phượng đã khẳng định cái
giá trị lớn lao của nó không những về phương diện tôn giáo mà
còn riêng về phương diện nghệ thuật nữa.
California, mùa Xuân năm Canh Thìn.