|
Ca Khúc Trái Ðệm
LM Anrê Đỗ Xuân Quế
VietCatholic News (Thứ Hai 3/3/2003)
Nhân đọc bài “ĐI TÌM
NHỮNG CA KHÚC TRÁI ĐỆM”
Cuối cuốn sách “bốn mươi
năm sau Vatican hai nhìn lại”, tài liệu họi
thảo mùa vọng, lưu hành nội bộ, với
những dòng chữ ở đầu bìa : hội đồng
giám mục việt nam, ủy ban giám mục về văn
hoá, sách dày 345 trang, có bài “Đi tìm những ca khúc
trái đệm giữa nhà thờ và chợ đời”,
ca khúc ý lực của Y Vũ. Cuốn sách này in đẹp,
rõ ràng, giấy tốt.
Thoạt nhìn cuốn sách, người
ta thấy có điều lạ đập ngay vào
mắt : đó là các chữ đều viết thường
và năm không viết bằng số mà lại
viết bằng chữ, không giống ai có thể là
độc đáo mà cũng có thể là lập
dị. Ở đây cái khác thuộc loại nào, xin dành
quyền xét đoán cho độc giả.
Trở lại bài báo, tôi rất băn
khoăn với hai chữ ý lực. Tôi đã tìm trong
mấy tự điển Việt Nam, nhưng không
thấy hai chữ đó. Cúôi cùng, tôi nghĩ ai dùng
chữ đó có khi lấy tiếng Pháp rồi
dịch ra. Tiếng Pháp lá idée-force. Idée là ý, force là
lực. Dịc như vậy là gọn và sát. Tự
điển Larousse định nghĩa idée-force là : n.f
(pl.idée-force) idée principale, pivot d'un raisonnement et germe
d'action nghĩa là ý tưởng chính, mấu chốt
của lý luận, mầm mống hành động.
Tự điển Le Petit Robert định nghĩa idée-force
là : idée capable d'influencér l'évolution d'un individee, d'une époque
nghĩa là ý tưởng có thể ảnh hưởng
đến sự tiến triển của một cá nhân
hay một thời đại. Tựu trung, các định
nghĩa về idée-force trong tiếng Pháp đều nói
lên những khía cạnh tốt của hai chữ ý
lực.
Cách đây mười mấy năm,
ở Nha Trang thấy xuất hiện những tập sách
hát nhỏ đề là Bài ca ý lực. Những bài ca
này vắn dễ hát, lấy ý tưởng từ các
bài sách thánh, đặc biệt Tin Mừng các Chúa
Nhật Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Chay, Mùa Phục
Sinh và Mùa Thường Niên. Tác giả những bài ca
này muốn đưa đạo về các gia đình
cho ngừơi ta hát, khi làm việc nhà cũng như
khi vui chơi giải trí, để họ thấm
nhuần Lời Chúa và các tâm tình đạo đức.
Mục đích của các bài ca ý
lực cũng giống như các bài ca của cha Duval
Dòng Tên, Cha Cocagnac Dòng Đa Minh và Soeur Sourire Dòng
Nữ Đa Minh Bỉ mấy chục năm về trước
ở bên Pháp và Nhóm Alleluia Vào Đời của các
sinh viên học viện Dòng Chúa Cứu Thế thập
niên 60 ở Đà Lạt. Theo tôi, những bài ca này
đích thực thuộc loại nhạc vào đời
mà tác giả Y Vũ nói một cách tượng hình là
“những ca khúc trái đệm giữa nhà thờ và
chợ đời”. Cha Duval, Soeur Sourire đã hát như
thế cho người ta nghe. Các vị đó quả
thực đã đưa nhạc vào đời. Đây
là loại hình truyền giáo ở thời đại
chúng ta. Người ta không đến nhà thờ thì mình
tìm cách đưa “nhà thờ” đến cho người
ta bằng âm nhạc thích hợp. Loại âm nhạc này
không phảii là âm nhạc trong phụng vụ nên không
giống và không phải là nhạc hát trong nhà
thờ. Vì thế nó chính là trái đệm. Vì là trái
đệm, nên chúng ta hãy giữ vị trí trái đệm
này. Đó mới chính là nhạc trẻ, nhạc vào
đời. Bởi vậy, đừng biến nó thành
nhạc phụng vụ và đừng dùng nó để
hát trong nhà thờ. Nhà thờ có loại nhạc khác
xứng hợp với việc thờ phượng,
để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu.
Những loại nhạc “thời trang” như tác
giả nói, hãy dành cho phòng trà; những bài hát trái
đệm có thể hát ở tụ điểm ca
nhạc. Các nhạc sĩ công giáo có năng khiếu
về loại nhạc này nên sáng tác theo hướng
đó và vận động cách nào để
những bài đó được hát ở quán cà-phê
hay tụ điểm ca nhạc thì thật là nhất
rồi, và đó là một hình thức tông đồ,
một hoạt động truyền giáo mới
mẻ.
Tiện đây tôi xin góp ý với tác
giả về những điều tác giả nêu lên
những câu hỏi ở trang 333. Tác giả hỏi :
“Có nên giữ lấy cho mình phong cách riêng giữa dòng
ca khúc thời trang của tuổi trẻ đâu như
rất trần tục, rất xa lạ trong khung
cảnh tôn giáo ?”
Tôi nghĩ là nên lắm vì dù sao các
nhạc sĩ sáng tác những bài hát trái đệm cũng
là ngừơi công giáo và có chủ trương làm
thành những bài ca “ý lực” như nghĩa
của từ này trong hai tự điển tiếng Pháp.
Theo tác giả, “dòng ca khúc thời
trang của tuổi trẻ đâu như rất
trần tục, rất xa lạ trong khung cảnh tôn giáo”.
Chính vì vậy mà tác giả ca khúc công giáo không nên
teho và phải giữ cho mình phong cách riêng. Ngừơi
viết ca khúc phải đem lại cho người
nghe những gì hay và đẹp. Cái hay và đẹp này
phải tồn tại lâu dài chứ không mau qua như
thời trang hay mốt. Mốt là cái nhất thời
đáp ứng một nhu cầu tạm bợ. Hơn
nữa, vì dòng ca khúc ấy xa lạ với tôn giáo nên
càng không nên chạy theo và vào cuộc với tuổi
trẻ để lôi cuốn giới trẻ, dù như
nguyên tắc của thánh Phao-lô : “Miễn là Chúa Giê-su
được rao giảng.” (Pl 1, 18). Khi đọc
tới đây, tự nhiên tôi hồ nghi và mở sách
Kinh Thánh để xem câu trích dẫn và tìm xem có
đúng thật là nguyên tắc của thánh Phao-lô không.
Tôi nghĩ đây không phải là nguyên tắc và chúng
ta không nên nghĩ là nguyên tắc, vì quả thực,
nếu nguyên tắc là như thế thì quá nguy
hiểm. Nó nguy hiểm ở chỗ người ta
cứ dựa vào đó mà nghĩ, mà nói mà làm
“miễn là Chúa Giê-su được rao giảng”.
Ở đây, có một nguyên tắc luân lý phải
theo. Đó là “không được làm điều
bất chính để đạt điều chân chính,
nghĩa là không được làm điều tội
để đạt tới điều phúc. Miễn là
Chúa Giê-su được rao giảng, nhưng không
phải rao giảng bất cứ cách nào và làm
bất cứ điều gì để Danh Ngừơi
được loan báo. Vì vậy, khi nại vào câu
“Miễn là Chúa Giê-su được rao giảng”,
chúng ta cần thận trọng và phân tích hoàn
cảnh cho kỹ.
Trở lại mạch văn của
câu được trích dẫn, tôi thấy như sau.
Nguyên câu trích dẫn ấy chưa đủ để
chúng ta dựa vào và lấy làm nguyên tắc và
phải ngược lên trên, đọc lại mấy
câu trước mới hiểu được , từ
câu 15-19.
“15 Đã hẳn, có những
kẻ rao giảng về Đức Ki-tô vì lòng ganh
tị và tranh chấp, song những người khác
lại làm công việc đ1o vì ý ngay lành. 16 Những
người này làm vì bác ái, bởi họ biết
rằng tôi được chỉ định để
lo bênh vực Tin Mừng. 17 Còn những người
kia thì loan báo Đức Ki-tô vì tính ưa tranh giành,
họ không có lòng ngay, tưởng làm như thế là
gây thêm khổ cho tôi, trong lúc tôi bị xiềng xích.
18 Nhưng không sao đâu ! Dù thế nào đi nữa
với ý lành hay ý xấu, cuối cùng Đức Ki-tô
được rao giảng là tôi mừng. Và tôi
sẽ còn mừng nữa, bởi vì tôi biết
rằng điều ấy sẽ giúp cho tôi đạt
ơn cứu độ, nhờ lời cầu
nguyện của anh em và nhờ Thần Khí của
Đức Giê-su Ki-tô phù trợ.” (Pl 1, 15-19)
Điều chính yếu ở đây
là Đức Giê-su Ki-tô được rao giảng, nhưng
không phải rao giảng bất cứ cách nào, mà
phải rao giảng để mang ơn cứu độ
đến cho người ta như thánh Phao-lô đã
đạt được ơn cứu độ
nhờ lời cầu nguyện (của tín hữu Phi-líp-phê)
và nhờ Thần Khí của Đức Giê-su Ki-tô phù
trợ”.
Còn một điều nữa, tác
giả đề cập đến trong bài báo là
lời trong bài hát mà tác giả gọi là ngôn từ
của một thời. Đồng ý là thời nào dùng
ngôn ngữ của thời đó. Chúng ta không sống
ở thời này mà lại dùng ngôn ngữ hay lối
viết của thời tạp chí Nam Phong hay Đông Dương
tạp chí. Lời trong bài hát hay ca khúc tôn giáo, dù là
những bài hát đệm, cũng phải chuẩn xác
về văn phạm, văn chương và ý nghĩa.
Nhạc sĩ Nguyễn Bách, giảng viên tại
Nhạc viện Thành phố đã có những nhận
xét và phê bình chí lý về lời ca trong một
số các bài hát hiện nay, trong tập giáo trình ông
giảng ở trường nhưng chưa xuất
bản. Đại khái ông nói có một số
nhạc sĩ bây giờ xem nhẹ lời ca và dùng
những lời rất xoàng xĩnh, sai văn phạm,
thiếu văn chương, nông cạn, sáo mòn”..
Cuối cùng một ý tưởng khác
của tác giả cũng làm tôi lưu ý không ít,
đó là : “Và nếu thuở trước không ai
bị Thày khước từ, không lắng nghe, kể
cả các cô buôn hương bán phấn, cả các tên
cướp, những người tội lỗi, hôm
nay cũng không ai có thể bị át tiếng, bị xóa
bỏ hay khước từ, kỳ thị.”
Đúng, Thày là Chúa Giê-su không khước
từ, không loại ai, không kỳ thị. Thày chơi
với người thu thuế, ăn uống với
hạng tội lỗi, cảm hoá và đưa người
kỹ nữ về đường lành, nhân hậu
với người phụ nữ ngoại tình. Nhưng
Thày đã có những lời lẽ gay gắt,
những thái độ quyết liệt với các ông
Pha-ri-sêu và nhóm Kinh sư. Như vậy có nghĩa là
Thày thẳng tay với loại người giả hình,
ngoan cố. Thày khoan dung với người xấu, nhưng
không dung tha cái xấu. Trong câu trưng dẫn trên có
vế “hôm nay cũng không ai có thể bị ai át
tiếng”. Tôi xin nói ngay là có những ngừơi
bị át tiếng, vì họ nói bậy, làm bậy. Nhóm
mấy người phụ nữ ở Ao mới đây
tự động kêu người phong chức linh
mục cho mình đã bị phạt vạ tuyệt thông.
Nhóm ngừơi đồng tình luyến ái đòi
lấy nhau làm vợ làm chồng bên Âu Mỹ cũng
đã bị át tiếng, nghĩa là bị phê bình
nhận xét và không được chấp thuận.
Trở về phạm vi âm nhạc
trong phụng vụ, Hội Thánh không chấp nhận
cho loại nhạc Jazz,nhạc chiến đấu và
nhạc đi săn được dùng trong nhà
thờ. Vì vậy, ý kiến trên của tác giả
cần được phân tích và xét lại cho chính xác.
Đọc bài của Y Vũ, tôi
thấy tác giả có lưu tâm đến những bài
hát đạo, nhưng mới là đạo ở ngoài
nhà thờ. Nhưng bài hát và loại nhạc này
được giới trẻ và nhiều người
ưa thích. Xin nhạc sĩ Y Vũ và các nhạc sĩ
khác cứ làm những bài hát như thế này, nhưng
hãy để chúng làm “những trái đệm
giữa chợ đời và nhà thờ”, chứ
đừng đưa chúng vào nhà thờ. Nhà thờ
đã có loại nhạc khác, thích hợp và xứng
đáng dùng trong nơi thờ phượng hơn.
Bảo rằng dùng nhạc nhà thờ buồn lắm,
giới trẻ không đến đâu ! Nói như
thế, một là chưa biết một trong những
điều kiện căn bản của nhạc nhà
thờ là phải có nghệ thuật, nghĩa là đàn
hay hát giỏi, hai là biết nhưng chưa đạt
tới nghệ thuật đó, nên làm cho người
nghe thấy chán. Còn nếu biết mà lại làm hay
nữa thì chắc người ta không chán đâu, như
Ban Hợp Xướng PioX đã làm thử và có kinh
nghiệm.
Nhiều nhà thờ muốn dùng
trống phách và lối hát rộn rã như phòng trà,
sân khấu hay tụ điểm ca nhạc để
thu hút giới trẻ. Y muốn này thiết tưởng
cần phải được xét lại. Lôi kéo
giới trẻ đến nhà thờ bằng lối này
xem ra khả nghi, vì đến nhà thờ như
thế là để nghe cho vui. Mà nhà thờ sao vui cho
bằng ngoài đời được, nếu
những cái vui đó chỉ thuộc giác quan. Đúng
ra, người ta đến nhà thờ là để
được giáo dục về đức tin cho có
ý nghĩa sâu sắc hơn và được yểm
trợ bằng lời ca tiếng hát để tôn vinh
Thiên Chúa và thánh hóa tâm hồn mình.
Vì vậy, ca hát trong nhà thờ là
một vấn đề thuộc đức tin và lòng
đạo đức theo đúng nghĩa. Chỉ
những người nào có đức tin mạnh và lòng
đạo đức thật mới chịu hát và làm
bài hát theo giáo huấn của Hội Thánh về khoa
âm nhạc trong Phụng Vụ.
LM Anrê Đỗ Xuân Quế |