Đệm Đàn Trong Phụng Vụ

Là một Ca Trưởng "Việt kiều", sau khi đọc bài viết của cha Đỗ Xuân Quế "Suy Nghĩ Về Việc Ca Hát Trong Nhà Thờ" với đoạn văn dưới đây khiến ai cũng thấy nhột nhột!: 

" Nếu ai có dịp tham dự các Thánh lễ ở Âu Mỹ, trong các nhà thờ có Việt kiều và người bản xứ hát, chắc hẳn sẽ thấy có sự khác biệt lớn. Khác biệt ở chỗ này là khác với điều người ta vẫn thường nghĩ là người bản xứ phải hát những loại nhạc mới thời thượng bây giờ, nhưng ngược lại, họ lại hát loại nhạc nghiêm trang đứng đắn của nhà thờ, còn Việt kiều mình thì lại hát những loại nhạc náo động ồn ào, thích hợp cho những tụ điểm ca hát ngoài trời hơn là trong nơi thờ phượng. Nhạc của họ cũng mới nhưng vẫn giữ được cung cách riêng của loại nhạc thờ phượng trong tôn giáo tuân theo các kỷ luật hiện hành của Giáo hội."

Ban Thánh Nhạc thành phố HCM trong bài "Tình Hình Thánh Nhạc Hiện Nay", khi nói về mặt tiêu cực của Thánh Nhạc Việt Nam hiện tại, đã viết: 

" Về ban nhạc, nhiều nơi còn sử dụng dàn nhạc kích động, không trình tấu những bản có phối dàn nhạc nghiêm chỉnh mà chỉ biết trình tấu theo những vũ điệu kích động trên sân khấu, vũ trường : điệu Valse, Slow, Boléro, Tango, Agogo, Twist, Surf... Điều này không phù hợp với những chỉ thị của Hội thánh."

Nhạc trưởng Thiên Quang, hiện đang cư ngụ tại San Diego, trong bài "Một Thoáng Nhìn Về Thánh Nhạc Việt Nam", đã viết:

"... Cụ thể, tại một nhà thờ VN hải ngoại, thánh lễ hôm đó có rất nhiều người tham dự; không cần quan sát tỉ mỉ, người tham dự thánh lễ nhận ra ngay được sự trang hoàng rất trang trọng trên cung thánh... Thánh lễ bắt đầu, tiếng trống, đàn điện tử vang lên rất ồn ào, hết chắt bùng bùng này, lại đến chắt bùng bùng kia, cộng thêm giọng hát của ca đoàn làm mọi người chia trí! Thú thật, người không am tường về nhạc cũng có thể nhận ra được trống đi một nơi, đàn đi một nẻo và ca đoàn mạnh ai người nấy hát, ít người hiểu được ca đoàn hát những gì..! Phải chăng người ca trưởng đó coi thường thánh nhạc trong Phụng vụ? Cho nên mới điều khiển ca đoàn một cách thoải mái và thiếu nghiêm trang như vậy?! Nếu thánh nhạc trong Phụng vụ được trình bày một cách cẩu thả như vừa kể, đó không phải là sự chia trí cho người tham dự thánh lễ hay sao? Một nhạc sĩ VN, đã thành danh và không phải là người Công Giáo, từ lâu rất mến mộ thánh nhạc VN; gần đây ông đã nhận định như sau: "Trong những thập niên qua, âm nhạc đạo Công Giáo đã mất đi phần nào bản chất của mình khi biến thành nhạc đời. Từ trước tới nay, người ta vẫn thấy có 2 dòng nhạc tại VN, nhạc đời và nhạc đạo. Nhưng trong những năm tháng vừa qua, chỉ còn lại có dòng nhạc đời và dòng nhạc đời mang lời đạo mà thôi". (Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ, tháng 8 năm 2001 trang 7).

Trong bài này cũng trích đoạn bài viết của LM Dao Kim như sau: 

"Tại nhiều nơi, có rất nhiều người giỏi nhạc, nhưng không biết gì về Phụng Vụ. Họ là những nhạc sĩ có tầm vóc trên cây đàn, nhưng thật ấu trĩ về Phụng Vụ. Và ngay cả nhiều vị có trách nhiệm với cộng đoàn cũng thờ ơ trong lãnh vực này. Nói cách khác, có nhiều người rất sốt sắng, đầy nhiệt huyết, có kiến thức về âm nhạc, nhưng tiếc thay, lại thiếu cái nhìn về Phụng Vụ và quan điểm Thánh Kinh của Giáo Hội trong việc phung tự".

--------------------

Chúng ta phải đệm đàn ra sao?

Trong bài "Các Vấn Đề Liên Quan Đến Việc Thể Hiện Âm Nhạc Trong Phụng Vụ"  (Hát Lên Mừng Chúa) có viết:

ĐÀN HÁT CHO AI ?

Nói đàn hát trong PV là đàn hát cho Chúa thì có lẽ quá đúng, đến nỗi trở thành thừa chăng ? Trong bài tiền tụng chung mẫu 4 nói về việc "ca tụng Chúa là một hồng ân" có viết : "Thật ra Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng chính Cha lại ban ơn soi sáng để chúng con biết cảm tạ Cha. Vì tuy những lời ca tụng ấy không mảy may thêm gì cho Cha, nhưng giúp chúng con được ơn cứu độ muôn đời nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con..."

Như vậy, cuối cùng, Đàn hát trong PV là đàn hát cho con người, vì ích lợi của con người.

A) Đàn hát cho chính bản thân người đàn, người hát :

Chính người đàn hát cũng phải cầu nguyện được bằng tiếng đàn tiếng hát của mình. Chính họ cũng phải mặc lấy những tâm tình do tiếng hát tiếng đàn gợi lên. HTTN 24 viết : "Ngoài việc đào tạo về âm nhạc, các ca viên chũng phải hưởng một nền đào tạo về phụng vụ và thiêng liêng thích hợp, để trong lúc chu toàn phận vụ PV của mình, không những chỉ đem lại vẻ đẹp nhiều hơn cho động tác thánh, và một tấm gương tuyệt hảo cho các tín hữu mà thôi, nhưng họ còn mang lại cho chính họ một lợi ích thiêng liêng đích thực". Do đó :

1- Ca đoàn cũng như nhạc công không nên tự coi mình như ban nhạc ban hát đi làm thuê theo hợp đồng, làm xong phận vụ của mình mà không cần sống tâm tình của buổi lễ.

2- Tuy nhiên cũng phải chấp nhận một sự "chia trí bắt buộc" do phận vụ mà thừa tác viên nào cũng cảm thấy, nhưng rất chính đáng, nhất là đối với người điều khiển cộng đoàn, ca đoàn, nhạc công. Nhưng nếu chuẩn bị chu đáo trước càng nhiều thì càng bớt bị "lo ra" cho mình cũng như cho kẻ khác.

B) Đàn hát cho những người cùng hiện diện trong buổi lễ

Đàn hát một mình ở nơi riêng tư thì thế nào cũng được, miễn có tấm lòng chân thành trước mặt Chúa. Nhưng khi đàn hát cho cả một tập thể và với cả một tập thể, thì có một số đòi hỏi do tính xã hội của việc đàn hát nêu ra.

Mỗi người đàn hát với cả tâm hồn của mình, nhưng đồng thời cũng phải hát thế nào, cung cách ra sao để tạo điều kiện cho người khác cũng cầu nguyện được, cùng chia sẻ được những tâm tình do tiếng đàn tiếng hát của mình đem lại. Do đó :

1- Cần phải tuân theo một kỷ luật tối thiểu để cho tiếng đàn, tiếng hát chung được đồng đều và hòa lẫn vào nhau, tiến dần tới chổ càng ngày càng hát có nghệ thuật hơn. Từ đó cần huấn luyện ca hát, không những cho ca viên, mà cho cả cộng đoàn nữa (HTTN 18,24).Cần có người điều khiển cộng đoàn để việc ca hát của cộng đoàn được thể hiện tốt hơn.

2- Cần chọn bài hát, bản đàn phù hợp với khả năng cũng như đáp ứng phần nào tâm tình của từng cộng đoàn : gồm mọi thành phần, hoặc chỉ toàn thiếu niên nhi đồng hay chỉ toàn thanh niên nam nữ, hay chỉ toàn ông già bà lão, hoặc toàn người nước ngoài hay chỉ có người VN mà thôi.

3- Khi đa số là người VN hát cho người VN, thì lại cần có thao thức tìm những bài mang nhiều âm hưởng dân tộc, và nhất là thể hiện theo phong cách của người VN trong lối phát âm, cũng như cách xử lý các thanh điệu của ngôn ngữ, làm sao bảo toàn được nét thẩm mỹ của ngôn ngữ VN.

4- Cũng do tính xã hội của PV, mà mọi người, nhất là các thừa tác viên, ca viên, nhạc công... phải có một sự tôn trọng kẻ khác, một sự tế nhị và lịch sự nào đó không gây khó chịu cho người khác từ trang phục, cho tới cử chỉ, cung cách đi lại, đứng ngồi. Cung cách của ca viên, nhạc công khi đàn hát cũng phải trang nhã và trật tự.

5- Riêng ca trưởng, là người thường phải đứng trước mặt nhiều người khác thì lại phải ý tứ nhiều hơn : khi điều khiển bằng những cử chỉ của đôi tay, nét mặt và thân hình, CT không chỉ nhắm đến sự hữu hiệu của cử chỉ, mà còn phải đồng thời chú trọng đến tính mỹ quan của chúng nữa : Tránh những gì khoa trương, lố lăng, chỉ cốt lòe mắt thiên hạ, hoặc những cử chỉ thiếu tế nhị, khó coi (như lắc hông, vặn người, nhún gối, dậm chân, dọa nạt, kéo quần...) Ngưòi CT điều khiển cộng đoàn chỉ nên dùng những cử chỉ đơn giản và rộng rãi hơn cho người ở xa cũng có thể nhìn thấy.

V. ĐÀN HÁT THẾ NÀO TRONG PV ?

Việc thể hiện âm nhạc trong PV cần bảo đảm được các yêu cần sau :

A) Tính thông đạt của lời ca :

Trong PV lời ca là chính, cũng như trường hợp chung của các ca khúc, nên lời ca cần được đến tai người nghe một cách rõ ràng để họ có thể hiểu được ý nghĩa lời ca. Đây là một đòi hỏi gắt gao được lặp đi lặp lại trong nhiều văn kiện của Giáo hội về Thánh nhạc (HTTN 64, QCTQ 18...). Công đồng Trento cũng đã nói: "Thánh nhạc khác với nhạc đời ở chỗ khi hát lên, lời ca phải được nghe và hiểu rõ ràng, chứ không bị dòng nhạc lấn át. Có nhiều nguyên nhân làm mất tính thông đạt :

1- CT chọn những bài hát tự nó rối lời trẹo dấu : lỗi của người soạn nhạc và nhất là của người chọn bài.

2- Cách phát âm chưa "tròn vành rõ chữ" khiến người nghe khó nhận ra tiếng gì, nghĩa gì. Hoặc do thiếu tập luyện, chưa thuộc bài, chưa hiểu ý tưởng của bài hát... do lỗi của người trình tấu.

3- Cũng có thể thông đạt kém do phượng tiện khuyếch đại âm thanh chưa hoàn chỉnh hoặc kém chất lượng (micro, ampli, loa, điện...), người sử dụng không biết gì về âm nhạc... Cần có người chuyên trách về âm thanh mà đồng thời cũng nắm được những gì ca đoàn và cộng đoàn sẽ hát trong buổi lễ.

4- Lối đệm đàn phô trương, lấn át tiếng hát, làm cho lời ca không nghe rõ, hoặc trở nên khó hiểu (HTTN 64). Đàn quản cầm cũng ví như một ca đoàn, mà CT cũng phải lưu tâm để cho tiếng đàn đóng đúng chức năng "nâng đỡ và tô điểm" của mình khi đệm cho ca hát, ban nhạc cũng vậy.

B) Tính thánh thiện của âm nhạc trong Phụng vụ

Không phải chỉ người soạn nhạc, mà cả người thể hiện cũng phải lưu tâm đến tích cách này.

1- Về mặt tiêu cực : tránh những biểu hiện nhạc đời trong PV. Giáo Hội từ đầu muốn dành riêng cho Chúa một lối Phụng tự "trong tinh thần và chân lý", với một thứ âm nhạc không lây nhiễm âm nhạc của ngoại giáo và cả Do thái giáo nữa, để người tín hữu thời đó thấy được sự khác biệt giữa Ki-tô giáo và các tôn giáo khác (xem "Le chant liturgique après Vatican 2", tr.19...). Từ đó có một ưu tư chính đáng loại trừ khỏi PV những bài hát mang tính thế tục, những nhạc khí nào đã dành riêng cho một vị thần ngoại giáo... Dần dà tiến đến sự đối lập giữa đạo và đời, giữa thánh thiêng và trần tục. Công đồng Trentô đã cấm sử dụng những điệu nhạc uỷ mị, những điệu đi săn, điệu nhạc xuất trận... Nhưng với thời gian, khái niệm về thánh thiêng và trần tục cũng đang thay đổi, nên cũng có đổi thay trong cách dung nạp vào PV một số loại nhạc (như nhạc đạo bình dân, nhạc đa âm đa điệu tân thời...) hay một số nhạc khí (trước đây chỉ có quản cầm hoặc phong cầm). Dù sao vẫn còn có một nguyên tắc thực tiễn là không nên dùng những loại nhạc, điệu nhạc, nhạc khí, hay phong cách thể hiện có liên hệ mật thiết tới một sinh hoạt thế tục mà môi trường xã hội đương thời đánh giá như một sinh hoạt vô đạo, phóng túng về đạo đức luân lý (Chẳng hạn các điệu khiêu vũ, phòng trà... các kiểu hát phô trương chất giọng, rên rỉ, uỷ mị, ướt át...). Làm sao cho sinh hoạt tôn giáo không lây nhiễm bầu khí của các rạp hát, sân khấu, các tụ điểm ca nhạc giải trí...

2- Về mặt tích cực : Công đồng Vatican 2 đã nêu lên một nguyên tắc tích cực chi phối nền âm nhạc trong PV về nhiều mặt :

"...Âm nhạc Thánh càng gắn liền chặt chẽ với hoạt động Phụng vụ bao nhiêu thì càng thánh thiện bấy nhiêu..."

Từ nay, âm nhạc càng đóng vai trò của mình trong từng nghi thức, nghi lễ, trong từng diễn tiến nhất định của buổi lễ, thì càng được đánh giá là thánh thiện. Có thể nói, không còn loại nhạc nào tự nó được gọi là thánh. Nhưng chỉ có tính thánh thiện thực sự khi thể hiện nó cụ thể trong một hoàn cảnh phụng vụ nhất định nào đó, qua đó nó làm trọn phận vụ thừa tác của mình.

a. Trong PV, có những "Ngữ điệu" (actes de parole, xem Universa Laus 7,3 tr.16) khác nhau như công bố, suy niệm, xướng vịnh, ngợi ca, tung hô, đối đáp... thì nhạc càng phù hợp để thể hiện các ngữ điệu đó bao nhiêu thì càng thánh thiện bấy nhiêu (xem QCTQ 18).

b. Trong PV cũng có những "khoảng thời gian nghi thức" (moments rituels, xem Univeras Laus 7,3) khác nhau như phần mở đầu, các cuộc tiến rước, các lời khẩn cầu, các giây phút thinh lặng... thì nhạc càng phục vụ tốt cho những lúc đó thì càng thánh thiện.

Đối với mỗi phận vụ nêu trên, cần có một hình thức âm nhạc phù hợp (giai điệu, tiết tấu, nhịp độ (tempo), thể loại...) để làm cho nghi thức càng có ý nghĩa và càng hữu hiệu chừng nào hay chừng đó. Và người thể hiện cũng phải hiểu tính cách đó để diễn tấu cho xứng hợp. QCTQ số 7 đến số 73 đã đưa ra những chỉ dẫn khá tỉ mỉ về tính chất của mỗi phần trong Thánh lễ, và cách có thể ca hát như thế nào. Thông cáo 56/88 của Toà Tổng Giám Mục cũng đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể dựa trên QCTQ và một số văn kiện khác liên quan đến âm nhạc trong PV.

Chẳng hạn sẽ không phù hợp nếu chúng ta diễn tấu thật long trọng Kinh Thương xót, mà lại chỉ đọc Kinh Vinh Danh (vì lý do mất thời giờ), hoặc chỉ hát một cách rời rạc, buồn bã; hoặc bài Thánh vịnh đáp ca quá sôi động, trong khi bài Ha-lê-lui-a lại quá thanh thản, trầm lặng,... Hoặc một bài Ca nhập lễ thiếu hào hứng phấn phởi, so với một bài ca dâng lễ kềnh càng, lê thê,...

Nguyên tắc tích cực này của Công đồng mở ra cho chúng ta một hướng đi mới, mà tất cả những gì đã được nói tới trước Công đồng đều phải được sáng soi, bổ túc hoặc huỷ bỏ dưới ánh sáng của nguyên tắc này.

C) Tính cách nghệ thuật của âm nhạc trong phụng vụ :

Người soạn nhạc phải biết soạn làm sao cho có nghệ thuật, đó là một đòi hỏi đương nhiên, nhưng nghệ thuật trong PV là một nghệ thuật vị nhân sinh, nghệ thuật để phục vụ con người hiện diện trong buổi cử hành phụng vụ. Nó không còn đứng tự lập, mà chỉ có giá trị thực sự khi nó có khả năng hoàn thành phận vụ nghi thức và mục vụ mà PV dành cho nó (xem Jos. Gelineau : Les applications du "munus" de la musique dans la liturgie, trích lại từ Maison-Dieu 108 trang 44). 
Để cho khả năng hoàn thành phận vụ đó trở thành hiện thực, âm nhạc nhất thiết cần đến những người thể hiện nó một cách nghệ thuật. Cho nên việc thể hiện cho có nghệ thuật là một đòi hỏi chính đáng và cần thiết : Hát tự nó chưa phải là cầu nguyện 2 lần. Muốn cầu nguyện gấp đôi bình thường thì cần phải hát hay, tức hát có nghệ thuật. Nhưng thế naò là hát hay, đàn hay?

1- Muốn hát hay, đàn hay, trước hết phải biết chọn bài hay. Đây chủ yếu là trách nhiệm của Ca trưởng mà chúng tôi sẽ trình bày trong một bài khác, sẽ đưa ra một số tiêu chuẩn chọn bài...

2- Giọng hát, tiếng đàn "khả quan" :

a. Người hát có chất giọng tốt do trời cho hay do luyện tập. Ca đoàn do có điều kiện chọn lựa ca viên, và thì giờ tập luyện nhiều, nên các ca viên phải có giọng hát trên mức trung bình, có một số kỷ năng thanh nhạc tối thiểu nào đó. Một giọng hát tốt, có năng lực góp phần làm cho việc thể hiện thêm nghệ thuật. Cộng đoàn dân Chúa đa hợp, phức tạp, không thể đòi hỏi họ như ca đoàn được. Cho nên chọn bài hát cho cộng đoàn, nên chọn bài đơn giản về tầm tiếng cũng như giai điệu và tiết tấu.

b. Người đàn cần đạt tới một trình độ điêu luyện nào đó có khả năng "làm chủ" được tiếng đàn của mình. Chất lượng của cây đàn cũng phải đạt tới một mức trung bình nào đó...

Tuy nhiên, đó mới chỉ là khía cạnh "kỹ thuật" của tiếng hát tiếng đàn hay, mới chỉ là các vỏ ngoài, cái phương tiện để chuyển đạt cái ruột bên trong, cái nội dung, cái "hồn" của bản nhạc.

3- Tiếng đàn, tiếng hát có hồn : Đó là tiếng hát tiếng đàn diễn tả được những tình ý trong bản nhạc gần như hoặc có khi hơn điều tác giả mong muốn.

a. Mọi người, dù không có giọng tốt, nhưng vẫn có khả năng diễn tả được điều mình muốn nói. Nghĩa là hầu như ai cũng có thể hát có hồn, miễn là họ biết và hiểu điều mình muốn diễn tả. Do đó, Cộng đoàn dân Chúa vẫn có thể hát có hồn, nếu được người điều khiển cộng đoàn hướng dẫn và tập luyện dần cho trong một mức độ nào đó.

b. Ca đoàn hoặc ban nhạc thì mức đòi hỏi cao hơn vì họ có nhiều cơ hội tập luyện hơn. Nhưng trách nhiệm cuối cùng là nơi người ca trưởng.

c. Ca trưởng chịu trách nhiệm chuyên môn về khâu thể hiện, nên cần phải học tập nhiều để có khả năng nắm bắt được cái hồn của bản nhạc, và cũng có khả năng truyền đạt điều mình biết cho kẻ khác, và cuối cùng là khả năng điều khiển việc thể hiện cho tốt đẹp.

4- Hát Đàn có kỹ thuật và có hồn là hai yếu tố bổ túc cho nhau làm cho Đàn hát có nghệ thuật. Nhưng yếu tố cơ bản là hát có hồn, hát có tâm tình, mà hầu như mọi người đều có thể phần nào đạt tới. Điều tối thiểu mà PV đòi hỏi là mỗi tín hữu sống lời kinh mình đọc, và diễn tả ra bằng lời ca tiếng đàn đức tin sống động của mình trong từng hoàn cảnh phụng vụ : "Thật không có gì tưng bừng và vui vẻ hơn trong một buổi cử hành phụng vụ, mà toàn thể cộng đoàn biểu lộ đức tin và lòng đạo đức của mình ra bằng lời ca tiếng hát" (HTTN 1967 số 16).

5- Nguy cơ cần tránh :

a. Có người chủ trương "hát hay không bằng hay hát". Đây là một câu châm ngôn áp dụng cho nhạc sinh hoạt đoàn thể, chứ không áp dụng cho nhạc phụng vụ. Bởi vì trong PV, nếu hay hát mà lại hát không hay, thì lại gây nhàm chán, khó chịu, bực bội, chia trí cho người nghe. Như vây âm nhạc không đóng đúng vai trò của mình.

b. Chủ trương "duy cộng đoàn" : cái gì cũng hát cộng đoàn, lúc nào cũng chỉ có hát cộng đoàn, không cần hoặc không có ca đoàn hỗ trợ hoặc thay đổi. Lý do nêu ra thường là để dân chúng tham gia tích cực. Chủ trương này trái với tính nghệ thuật mà Giáo Hội vẫn bảo toàn và khuyến khích. Nó cũng chứng tỏ cách hiểu chưa đầy đủ về việc tham gia tích cực của mọi tín hữu, mặc nhiên tạo thành một thói quen "duy hoạt động" nơi dân Chúa (phân biệt Actif là tích cực, với Activiste là duy hoạt động) : Khi nào cũng phải nói, phải đọc, phải làm một việc gì bên ngoài, chứ ngồi lắng nghe, suy niệm đôi ba giây là thấy nóng ruột...".

6- Trong ca hát, tính nghệ thuật không thể tách khỏi tính thông đạt và tính dân tộc được, bởi vì muốn cho người hát và cũng người nghe cùng chia sẻ một tâm tình, thì phải hát sao cho rõ lời rõ ý, hát trong một ngôn ngữ mà đại đa số người tham dự hiểu được và cảm nhận được : Ở Việt Nam, đó là ngôn ngữ Việt Nam với 5 dấu, 6 giọng bổng trầm khác nhau. Nếu trong khâu soạn nhạc cũng như khâu thể hiện mà không biết tôn trọng bản sắc riêng của tiếng VN thì tính dân tộc cơ bản bị huỷ bỏ, tính thông đạt kém hiệu lực kéo theo sự xuống cấp của tính nghệ thuật. Riêng khâu trình tấu thể hiện, phải chú trọng nhiều đến lối phát âm sao cho ra tiếng VN.

Tác giả VĨNH LONG trong cuốn sách "Sự tròn vành rõ chữ của tiếng hát dân tộc" do Viện Nghệ Thuật xuất bản 1976 tại Hà Nội có viết : "Tiếng hát rõ lời là biểu hiện cụ thể của lòng trân trọng đối với tiếng nói và truyền thống ca hát dân tộc, của tinh thần dân tộc và ý thức tự hào dân tộc, do đó dễ đi sâu, lắng đọng trong lòng quần chúng. Bà con anh chị em chúng ta không thể hài lòng với những tiếng hát ồm ồm, ngọng nghịu vì bắt chước nước ngoài một cách thiếu sáng suốt, nếu không nói là nô lệ." (trang 146).

Chúng ta vừa xem qua một số vấn đề liên quan đến việc thể hiện âm nhạc trong phụng vụ. Khi nhìn lại việc thể hiện cụ thể tại một số nơi, chúng ta thấy có một chiều hướng đổi mới chậm chạp, một số nơi khác có nhiều mặt chưa hợp với tinh thần PV... mà nguyên do có thể tạm thu về những điểm sau :

1- Số bài đàn bài hát đáp ứng được yêu cầu PV tương đối còn quá ít so với số lượng lớ lao của những bài chưa đáp ứng nhu cầu PV. Do đó việc chọn bài trở nên khó khăn, nhiều ca trưởng bèn phải chọn đại. Cộng đoàn ít tham gia được.

2- Nhiều ca trưởng chưa có cơ hội để học tập về phụng vụ, về thánh nhạc nên cũng có hiện tượng chọn bừa, hát bừa...

3- Nhiều ca trưởng chưa có điều kiện học tập thêm về vai trò chuyên môn của mình, hoặc học chưa tới đã phải lao vào việc... nên không hoàn thành nhiệm vụ của mình : hát cho có, hát mà ít ai hiểu hát gì, hoặc hát như hát nhạc sinh hoạt vui chơi vậy... Ca trưởng giữ nhịp chứ chưa biết điều khiển...

4- Đệm đàn không nâng đỡ, mà còn lấn át tiếng hát, đôi khi còn phá tiếng hát.

Để khắc phục những "tồn tại" trên cần có sự góp sức của nhiều phía :

1- Phía người lãnh đạo tinh thần trong giáo phận, giáo xứ : nâng đỡ người soạn nhạc, ca trưởng, ca viên; khuyến khích học hỏi và thực hành theo tinh thần phục vụ; khuyến khích sự tham gia tích cực của cộng đoàn...

2- Người soạn nhạc không những "tôn trọng quy luật của Thánh nhạc" mà còn phải "cố gắng giữ gìn bản sắc ngôn ngữ của dân tộc trong âm thanh và tiết điệu, lại phát huy được một vài nét nhạc dân tộc trong các bản thánh ca" (Lời nói đầu trong tập THÁNH CA các Chúa nhật Mùa Vọng năm C, số 3 do Ban Thánh Nhạc giáo phận TP. HCM).

3- Người điều khiển cộng đoàn, ca đoàn cần ý thức trách nhiệm của mình hơn, bằng cách trau dồi học hỏi chuyên môn âm nhạc và PV để giúp cộng đoàn, ca đoàn tham gia tích cực hơn...

4- Các nhạc công, đặc biệt người đệm đàn phong cầm, đàn organ điện tử, cần học cách đệm thánh ca sao cho có thể nâng đỡ và tô điểm cho tiếng hát, chứ không phải phô trương lấn át nó.

Với sự cố gắng đổi mới từ nhiều phía như vậy, chúng ta hy vọng việc thể hiện âm nhạc trong PV ngày càng tốt hơn, nhằm giúp cho mỗi tín hữu, mỗi cộng đoàn "biểu lộ và thể hiện con người mới trong Đức Ki-tô phục sinh" bằng cách góp tiếng hát VN vào "Bài Ca Mới" của toàn thể nhân loại được cứu độ để CA TỤNG CHÚA. "Bài Ca Mới sẽ không trọn vẹn, không hoàn thành, bao lâu những con người thuộc mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ, mọi nền văn hoá chưa góp tiếng mình vào đó" (Universa Laus : I,10,1-3;II,45). Mỗi người trong chúng ta đang cố gắng góp phần nhỏ bé của mình để cho dân tộc VN, Giáo Hội VN góp tiếng mình vào "Bài Ca Mới" đó. Ước mong mọi người kiên trì cho tới khi "Bài Ca Mới" hoàn tất.

Huấn Thị Về Thánh Nhạc của Giáo Hội chung hoàn vũ:

THÁNH NHẠC DÙNG CHO NHẠC KHÍ

   62.                Các nhạc khí có thể rất hữu ích trong các buổi cử hành lễ nghi phụng vụ, hoặc đệm theo tiếng hát,hoặc chơi riêng một mình.

Trong Hội Thánh La-tinh, đại quản cầm có ống rất được quý chuộng và được coi như nhạc khí cổ truyền mà âm thanh có thể tăng thêm vẻ huy hoàng kỳ diệu cho những nghi lễ của Hội Thánh, và có sức mãnh liệt nâng các tâm hồn lên cùng Thiên Chúa và lên trời.

Còn những nhạc khí khác, thì tùy theo sự xét đoán và chấp thuận của thẩm quyền địa phương, có thể được dùng trong việc thờ phượng, tùy như chúng thích hợp hay có thể thích hợp được để dùng vào việc thánh với công dụng thiêng thánh, hay hợp với vẻ trang trọng của đền thờ, và thực sự giúp cho các tín hữu sốt sắng hơn.(41)

   63.                Muốn thừa nhận và sử dụng các nhạc khí, phải để ý đến nét đặc sắc và tập quán của mỗi dân tộc. Những nhạc khí nào, mà theo ý kiến chung, và cách sử dụng thông thường, chỉ hợp với nhạc đời, thì phải loại trừ ra khỏi mọi lễ nghi phụng vụ và các việc đạo đức thánh thiện. (42)

Mọi nhạc khí được thừa nhận trong việc thờ phượng phải sử dụng thế nào cho hợp với các đòi hỏi của lễ nghi phụng vụ, và làm cho việc thờ phượng nên tốt đẹp cũng như giúp các tín hữu thêm lòng đạo đức.

   64.             Nên dùng nhạc khí để đệm theo tiếng hát hầu giữ cho giọng khỏi xuống, và giúp cho cộng đoàn tham dự dễ dàng hơn, cũng như hợp nhất với nhau mật thiết hơn. Nhưng âm thanh của các nhạc khí không bao giờ được lấn tiếng hát, và làm cho bản văn trở nên khó hiểu. Mọi nhạc khí đều phải im tiếng khi linh mục hay một thừa tách viên đọc cao giọng một bản văn được dành riêng cho các vị ấy.

   65.               Trong các lễ hát hoặc lễ đọc, có thể dùng đại quản cầm hoặc một nhạc khí nào khác đã được chính thức thừa nhận để đệm theo tiếng hát của ca đoàn và giáo dân. Có thể độc tấu nhạc trước khi linh mục tới bàn thờ, lúc dâng lễ vật, trong khi rước lễ và lúc cuối lễ. Có thể áp dụng cùng một qui cách đó, thích nghi cho hợp trong các buổi cử hành thiêng thánh khác.

   66.               Không dược phép độc tấu các nhạc khí đó trong Mùa Vọng và Mùa Chay, trong Tuần Tam Nhật Vượt Qua, và trong giờ Kinh Lễ Cầu Hồn.

   67.               Mong sao các nhạc công đại quản cầm và các nhạc khí khác, chẳng những sử dụng thành thạo nhạc khí, mà còn hiểu biết sâu sắc tinh thần phụng vụ, để khi thi hành nhiệm vụ, dù chơi theo ngẫu hứng, họ vẫn làm cho buổi cử hành thêm phong phú theo bản tính thực của mỗi yếu tố và làm cho tín hữu say sưa tham dự.

Trích từ Thông Cáo Số I của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:

Nhạc Cụ Dùng Trong Phụng Vụ

[3] Từ lâu Giáo Hội vẫn quý trọng và đề cao việc dùng đại phong cầm (cũng gọi là đàn ống) trong phụng vụ. Âm thanh của loại đàn này làm tăng "vẻ huy hoàng cho các lễ nghi lại có hiệu lực nâng cao tâm trí lên cùng Chúa và những sự trên trời." Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, ta vẫn có thể dùng những nhạc cụ khác "Tùy theo sự phán đoán và phê chuẩn của thẩm quyền địa phương, miễn là đã hoặc có thể thích hợp để dùng vào việc Thánh, xứng đáng với vẻ tôn nghiêm của Thánh đường và thực sự giúp cảm hóa các tín hữu" (PV số 120).

[4] Trong khi chờ đợi những quy định cụ thể của HĐGM, cần lưu ý và thi hành ngay những điều sau đây:

a) Tiếng hát trong phụng vụ chiếm ưu thế nên luôn phải rõ ràng, các nhạc cụ khác chỉ là đệm theo nên "không bao giờ được lấn át tiếng hát" (Tự sắc Tra le Sollecitudini, số 16). Không được vuốt tay trên các phím đàn, nhất là organ và piano.

b) Chúng ta có thể dùng organ điện tử (synthesizer) trong phụng vụ, nhưng:

-những nút "điệu" chỉ nhắm dùng cho sinh hoạt đời. Do đó, không nên dùng trong phụng vụ. Tuy nhiên, có thể dùng lúc luyện tập để quen giữ đúng nhịp.

-phải lựa chọn các nút âm thanh thích hợp với Thánh ca (ví dụ organ, violin...), tránh dùng những âm thanh xa lạ với phượng tự vì sẽ gây chia trí hơn là giúp cầu nguyện.

-khi xử dụng các nhạc khí như organ điện tử, guitare, dàn trống, dàn kèn, dàn nhạc hoà tấu... không được dùng các điệu Jazz và các điệu phát xuất từ đó để đệm cho người hát khi cử hành phụng vụ 1. Vì các điệu này hầu hết đều có tính cách kích động, huyên náo... có thể thích hợp với các sinh hoạt khác nhưng bất xứng với nơi thánh.

-các hội kèn đồng (kèn tây) khi dùng trong phụng vụ hoặc trong các cuộc rước có liên quan, không được hoà tấu những bản nhạc đời, nhạc thời trang...

-tránh dùng các nhạc cụ đặt trong nhà thờ để luyện tập các bản đời. Thật không hay gì khi qua một nhà thờ mà từ trong nghe vọng ra những bài Valse, những "lá thư tình," "dưới ánh trăng," hay "love story"...

 

Kết luận:

Trích Người Trẻ Hát Nhạc Thánh Ca Vào Đời (Nguyễn Văn Thông)

Những lời khen chê không đúng thường làm lạc lối những người trẻ đang cần sự hướng-dẫn. Ca-trưởng và ca-đoàn cần phải biết nghe lời khen chê, nhưng người có trách-nhiệm cũng rất cần sự ý-thức xây-dựng trong lời phê-bình của mình. Không phải khen bao giờ cũng là xây-dựng. Khen sai có tác-dụng phá-hoại. Câu khen phiến-diện hay mơ-hồ nói cho người nhận kém tinh-tế, đang cần danh-vọng cũng có tác-dụng đẩy người đó xuống hố. Trong thánh-ca khi một ca-trưởng làm đúng thì đưa cả cộng-đoàn đến nguồn ơn lành của cầu-nguyện và phụng-vụ. Nhưng khi anh ấy, cô ấy nhận-định sai, làm sai thì cả cộng-đoàn bị thiệt-hại.