Bài
3
PHỤNG
VỤ BAO GỒM NHỮNG GÌ?
I.
Các
bí tích
Các
bí tích chia làm ba nhóm: nhóm
khai tâm, nhóm chữa lành và nhóm xây dựng cộng đoàn (CG
1212, 1421, 1534).
1.
Nhóm các bí tích khai tâm
Nhóm
này bao gồm ba bí tích: Thánh
tẩy, Thêm sức và Thánh Thể.
·
Nhờ bí tích Thánh Tẩy
con người được tái sinh trong đời sống mới, được tham dự
vào đời sống thần linh, và được hiệp thông với Giáo Hội
(GL 1263-1271).
·
Mặc dù bí tích Thánh
tẩy là điều kiện tiên quyết phải lãnh trước khi đón nhận
các bí tích khác (GL 849), nhưng bí tích Thánh Thể lại trở nên
trung tâm đời sống phụng vụ của Giáo Hội.
Tất cả các bí tích khác cũng như các thừa tác vụ và
hoạt động tông đồ đều gắn liền với bí tích Thánh Thể
và quy hướng về đó (GL 1324). Khi
cử hành Thánh Thể, Giáo Hội cử hành mầu nhiệm Vượt Qua
của Đức Kitô (GL 1067). Mầu
nhiệm này là nền tảng và nguồn mạch của tất cả phụng vụ
kitô giáo (CG 1067).
·
Nhờ bí tích Thêm sức
chúng ta đi sâu vào tình nghĩa tử của Thiên Chúa khi gọi Người
là Cha “Abba” (Rm 8,15), được kết hợp mật thiết với Chúa
Kitô hơn, được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô hơn,
được gia tăng các ơn Thánh Thần, được liên kết trọn vẹn
hơn với Giáo Hội và nhận được sức mạnh của Thánh Thần
để làm chứng cho Tin Mừng (GL 1303).
2.
Nhóm các bí tích chữa lành
Nhóm
này gồm hai bí tích hoà giải và xức dầu bệnh nhân.
·
Nhờ bí tích hoà giải
Chúa Giêsu tha tội và ban ơn thánh cho người tội lỗi, Ngài
hoà giải con người với Thiên Chúa và với vạn vật.
Qua bí tích hoà giải, Thiên Chúa biểu lộ tình thương của
người với nhân loại tội lỗi và đồng thời diễn tả ơn
cứu độ phổ quát của Chúa Kitô (CG 1468-1469).
·
Nhờ bí tích xức dầu
Chúa Giêsu nâng đỡ người đau yếu bằng cách ban Thánh Thần
để họ vượt thắng các khó khăn của bệnh tật và tuổi
già, để họ kết hiệp mật thiết hơn với Đức Kitô khổ
giá, để họ biểu lộ sự hiệp thông với Giáo Hội và để
chuẩn bị cho cuộc ra đi lần cuối (CG 1520-1523).
3.
Nhóm các bí tích xây dựng cộng đoàn
Nhóm
này gồm hai bí tích Truyền chức và Hôn phối.
·
Nhờ bí tích Truyền chức
người kitô hữu được thánh hiến để nhân danh Đức Kitô
dẫn dắt đoàn chiên Chúa bằng Lời và ân sủng của Ngài
(CG 1535).
·
Nhờ bí tích Hôn Phối,
vợ chồng kitô hữu được thánh hiến để đón nhận các
bổn phận và phẩm giá của đời sống hôn nhân (GL 1534-1535).
II.
Các
cử hành phụng vụ khác
1.
Các á bí tích
Các
á bí tích là những dấu chỉ thánh, được Giáo Hội thiết
lập phỏng theo các bí tích, để nhờ đó biểu trưng những
hiệu qủa, nhất là những hiệu quả thiêng liêng, và thông
ban các hiệu quả đó nhờ lời bầu cử của Hội Thánh.
Các á bí tích giúp con người chuẩn bị lãnh nhận hiệu
quả chính yếu của bí tích và thánh hoá những hoàn cảnh khác
biệt trong cuộc sống (PV 60; GL 1166-1167; CG 1667).
Các
á bí tích bao gồm các phép lành và việc trừ tà (CG
1671-1673). Các phép lành gồm
ba loại: loại chúc
lành trên người (ví dụ chúc phong viện phụ, khấn dòng,
thánh hiến trinh nữ), loại chúc
lành nơi chốn (ví dụ cung hiến nhà thờ mới, làm phép
nhà, công sở, trường học …) và loại chúc
lành trên sự vật (ví dụ làm phép ảnh tượng, tràng hạt,
các dụng cụ làm việc ..). Đàng
khác, việc trừ tà chỉ dành cho linh mục đạo đức và khôn
ngoan đã được Bản quyền cho phép cách đặc biệt và rõ ràng
(GL 1172).
2.
Giờ kinh phụng vụ
Mục
đích của giờ kinh là thánh hóa ngày giờ và toàn bộ sinh
hoạt của con người (GK 11). Giáo
Hội cử hành giờ kinh để thi hành chức năng tư tế mà Chúa
Kitô ủy thác, Giáo Hội cũng cầu nguyện liên lỉ để chúc
tụng Thiên Chúa và thánh hoá đời sống nhân loại, như lời
Chúa Kitô dạy “Phải cầu nguyện không ngừng” (Lc 18,1).
Các
giờ kinh phụng vụ được phân chia theo mùa phụng vụ và các
ngày lễ giống như khi cử hành thánh lễ.
Tuy nhiên, vì giờ kinh có mục đích thánh hóa ngày sống
nên cấu trúc giờ kinh được chia đều trong một ngày. Có 5 giờ kinh khác nhau trong một ngày:
Kinh Sách, Kinh Sáng, Kinh Trưa, Kinh Chiều và Kinh Tối.
Khi đọc các giờ kinh cần cố gắng sao cho phù hợp với
giờ thật trong ngày, không nên ban sáng đã đọc Kinh Tối hoặc
đến tối lại đọc Kinh Sáng (GK 29).
3.
An táng
Giáo
Hội cử hành nghi thức an táng cho người quá cố để diễn
tả niềm tin vào sự Phục sinh của Chúa Kitô, chính niềm tin
này soi sáng cho ý nghĩa của cái chết.
Đối với người tín hữu, chết là kết thúc đời sống
bí tích nhưng lại khởi đầu sự viên mãn của cuộc tái sinh
mới đã bắt đầu qua ơn bí tích Thánh tẩy.
Người
ta cần phân biệt thánh lễ an táng và nghi lễ an táng là hai
cử hành khác nhau. Thánh
lễ an táng là cử hành thánh lễ với các bản văn phụng
vụ về lễ cầu hồn; nghi lễ an táng là cử hành các nghi thức
công giáo trước khi đem chôn thi hài người quá cố.
Thông thường nghi lễ an táng được cử hành trong thánh
lễ an táng. Tuy nhiên vì hoàn
cảnh tang gia và việc bảo trì thi hài người quá cố, nhiều
khi bắt buộc phải an táng thi hài người quá cố vào những
ngày luật phụng vụ không cho phép cử hành thánh lễ an táng,
lúc đó người ta có nghi lễ an táng nhưng không có thánh lễ
an táng. Thánh lễ cầu hồn
chỉ cho người chết sẽ được cử hành vào một ngày khác
thuận tiện hơn (AT 6) [1].
4.
Chầu Thánh Thể và phép lành Mình Thánh Chúa
Chầu
Thánh Thể là hành vi phụng vụ nhằm biểu lộ đức tin công
khai vào sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô trong bí tích
Thánh Thể. Khi chầu Thánh
Thể con người khám phá tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu
trao ban cho con người, từ đó họ múc lấy sinh lực dồi dào
cho việc dấn thân và tự hiến cho anh em.
Việc chầu Thánh Thể thường được chia làm hai loại:
loại lâu giờ có
thể kéo dài cả ngày lẫn đêm (được tổ chức tại
các trung tâm tôn thờ Thánh Thể, hay các phiên chầu lượt),
và loại ngắn giờ, tức
trong khoảng thời gian ngắn (ví dụ 30 phút, 1 giờ, 2 giờ). Khi
chầu Thánh Thể, đối tượng thờ lạy là Chúa Giêsu Thánh
Thể, vì thế không nên pha tạp việc tôn kính các thánh hay những
việc đạo đức bình dân (TT 95).
BÀI
HỌC GHI NHỚ 1.
Phụng vụ bao gồm hai loại cử hành chính sau đây:
loại các bí tích do Chúa Kitô thiết lập và loại các cử
hành khác do Giáo Hội thiết lập. Các bí tích do Chúa Kitô thiết lập có giá trị trổi vượt
trên mọi cử hành khác do Giáo Hội thiết lập. 2.
Trung tâm của tất cả phụng vụ Kitô giáo là bí tích
Thánh Thể, mọi cử hành khác phải quy hướng về đó. 3.
Trong các á bí tích, thì các phép lành trên người chiếm
vị trí quan trọng hơn, đặc biệt hai nghi thức chúc phong viện
phụ và khấn dòng đứng đầu trên mọi á bí tích (GM 720). 4.
Được phép cử hành nghi thức an táng vào lúc thuận
tiện, nhưng chỉ được phép cử hành thánh lễ an táng (tức
bản văn phụng vụ của lễ cầu hồn) vào những ngày quy luật
phụng vụ cho phép mà thôi (RM 380). 5.
Trước Thánh Thể để công khai cho chúng ta tôn thờ người
ta chỉ quy hướng về Chúa Kitô, vì thế nên đọc Lời Chúa,
suy niệm, hát Thánh vịnh, dâng lời nguyện, thinh lặng … (TT
95-96).
|
[1] Bạn
có thể tham khảo các quy luật cử hành thánh lễ an táng
trong “Lm Vinhsơn Nguyễn Thế
Thủ, Phụng vụ các bí tích”, Đại chủng viện thánh
Giuse, 2000, trang 164-166