CHƯƠNG I
THẾ NÀO LÀ
PHỤNG VỤ?
Bài
1
BẢN
CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA PHỤNG VỤ
I.
Ý nghĩa danh từ “Phụng vụ”
Danh
từ “Phụng vụ” mà chúng ta dùng hiện nay phát xuất từ
tiếng hy lạp Leiturgia,
danh từ này ghép bởi hai từ Laos
(dân chúng) và Ergon
(công việc, việc làm). Theo
sát nghĩa, leiturgia chỉ công
việc của dân chúng. Trong
cách hiểu thời cổ hy lạp, danh từ này chỉ các việc người
ta làm phúc lợi của cộng đoàn hoặc của toàn thể dân chúng.
Các công việc phúc lợi này bao gồm cả lãnh vực vật
chất và tinh thần. Người
ta cũng không phân biệt việc làm đó do cá nhân hay tập thể
thực hiện, hễ ai thực hành việc công ích, thì công việc đó
được gọi là “Leiturgia”.
Bắt
đầu từ thế kỷ thứ II Trước Công Nguyên (TCN), danh từ này
mang thêm ý nghĩa mới trong thế giới hy lạp, nó chỉ các việc
phượng tự công khai. Và
bản LXX (tk III TCN)[1]
dùng danh từ này để chỉ các việc phượng tự do các tư tế
và các thầy Lêvi cử hành trong Đền Thờ.
Sang
thời Tân Ước, danh từ “Leiturgia” được dùng theo nhiều
nghĩa khác nhau, chẳng hạn chỉ sự phục
vụ (Lc 1,23); chỉ việc phượng
tự của các tư tế nơi Đền thờ (Dt 10, 11); chỉ việc
rao giảng Tin Mừng (Rm 15,16); chỉ việc
thờ phượng Thiên Chúa của Giáo Hội sơ khai (Cv 13,2)
Vào
thời sau các tông đồ, danh từ leiturgia
vừa được dùng để chỉ sự phục vụ Thiên Chúa, vừa chỉ
sự phục vụ cộng đoàn. Dần
dần, bên Đông phương Hy lạp dùng danh từ này chỉ đích danh
việc cử hành Thánh Thể, còn bên Tây phương lại dùng nhiều
danh từ phát xuất từ Leiturgia để
chỉ các phận vụ trong phụng vụ, chẳng hạn:
ministerium, officum, munus, opus,
ritus, actio, celebratio, collecta, cultus, mysterium, sacramentum …[2].
Chỉ vào khoảng thế kỷ XVI, nhờ các nhà nhân bản
(humanistes) mà danh từ “liturgia”
được sử dụng rộng rãi bên tây phương; kế đó vào thế
kỷ XVII-XVIII, các Giáo Hội cải cách cũng chấp nhận từ ngữ
này để chỉ việc phượng tự Kitô giáo.
Đầu thế kỷ XX, Giáo Hội Công Giáo chính thức dùng từ
ngữ “liturgia” trong Bộ Giáo Luật 1917 – Codex
Juris Canonici, để diễn tả thẩm quyền của Giáo Hội trong
việc tổ chức phụng vụ và phê chuẩn các sách dùng trong
phụng vụ. Từ đó trở đi
danh từ Phụng vụ được dùng để chỉ một trong ba chức năng
mà người tín hữu lãnh nhận khi chịu Thánh Tẩy:
chức năng tư tế [3].
II.
Bản chất của phụng vụ
Phụng
vụ của Giáo Hội không phải là những nghi thức hay quy luật
của một tổ chức trần thế, đây
không phải là kết quả của ước muốn hay thay đổi theo thị
hiếu của con người theo dòng thời gian.
Công Đồng Vatican II xác định bản chất của phụng vụ như
sau: “Phụng vụ là
việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô,
trong đó công cuộc thánh hóa con người được mang ý nghĩa
qua những dấu chỉ khả giác và được thực hiện hữu hiệu
cách khác nhau theo từng dấu chỉ, và trong đó việc phụng tự
công cộng vẹn toàn cũng được thực thi nhờ nhiệm thể Chúa
Kitô, nghĩa là gồm cả Đầu cùng các chi thể của Người” (PV
7) [4]
.
Phân
tích giáo huấn trên của Công Đồng Vatican II, chúng ta nhận
thấy bản chất của phụng vụ Kitô giáo gồm những yếu tố
căn bản sau đây:
·
Phụng vụ
là một việc thánh, do chính Chúa Kitô thực hiện để
tôn vinh Chúa Cha trong Giáo Hội của Ngài.
·
Trong phụng vụ, con người
được thánh hóa khi liên kết với Đức Kitô, và cùng với
Ngài tôn vinh Chúa Cha.
·
Phụng vụ gồm những dấu
chỉ khả giác mang ý nghĩa đích thực, qua các dấu chỉ này
Thiên Chúa ban ân sủng cho con người.
·
Phụng vụ là công việc
của tất cả Nhiệm thể Chúa Kitô gồm Đầu và các chi thể.
Trong cử hành phụng vụ Chúa Kitô với tư cách là Đầu
quy tụ chúng ta lại và Ngài hiện diện trong cộng đoàn phụng
tự như Vị Chủ toạ.
Khi
Giáo Hội cử hành phụng vụ là lúc Giáo Hội thi hành chức
năng tư tế hay thánh hóa do Đức Kitô uỷ thác.
Trong mọi cử hành phụng vụ Chúa Kitô luôn luôn hiện
diện để chủ toạ, Ngài thi hành công việc chủ toạ qua các
thừa tác viên có chức thánh và những người được uỷ
nhiệm, vì thế bản chất của Phụng vụ đích thực diễn
tả mầu nhiệm Hội Thánh gồm Đầu và các chi thể.
Phụng vụ không phải là một loại hoạt động được
phân chia mỗi người làm một phần cho đồng đều, cho dân chủ,
cho “phát huy tài năng” … nhưng biểu lộ mầu nhiệm Giáo Hội,
có những công việc chỉ người chức thánh mới được thi
hành, và có những công việc người tín hữu được phép
thực thi. Do đó trong phụng
vụ mỗi người có công việc riêng, ai phận sự nấy, nhưng
mọi công việc dù là của ai đều phục vụ lợi ích chung của
tất cả Giáo Hội (PV 28-29).
III.
Chủ thể chính yếu trong cử hành phụng vụ
Có
hai chủ thể chính yếu của cử hành phụng vụ là Chúa Kitô
và Giáo Hội. Hai chủ thể
này không thể tách rời nhau.
1.
Chúa Kitô
·
Chúa Kitô hoạt động
trong phụng vụ với tư cách là Đầu
của Thân Thể, việc phụng tự Ngài thực hiện dâng lên
Chúa Cha nhằm thánh hóa tất cả Giáo Hội.
Toàn thể phụng vụ Kitô giáo liên kết với Ngài, để
nhờ Ngài với Ngài và trong Ngài, lời tạ ơn, chúc tụng và
cầu xin của chúng ta được Thiên Chúa chấp nhận.
·
Chúa Kitô còn hoạt động
trong phụng tự với tư cách Đấng
thiết lập các bí tích. Các
bí tích thực sự đem lại ân sủng và có hiệu quả đích thực
khi chúng được cử hành nhờ hành động của Đức Kitô và
do quyền năng Chúa Thánh Thần (GL 1084)
·
Trong phụng vụ, chính
Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm
Vượt Qua của người. Mầu
nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô không chỉ là sự kiện trong
quá khứ, nhưng có gía trị vĩnh cửu, vượt không gian và thời
gian, mầu nhiệm này được hiện tại hoá khi Giáo Hội cử hành
phụng vụ.
2.
Giáo Hội – Thân thể Đức Kitô.
Giáo
Hội được xây dựng trên nền tảng các Tông Đồ.
Khi ban Thánh Thần cho các Tông Đồ, Chúa Kitô uỷ thác
cho các ngài sứ mạng thánh hoá dân Chúa.
Cũng do quyền năng của Thánh Thần, các Tông Đồ chuyển
giao quyền thánh hóa cho những người kế vị.
Việc kế nhiệm tông đồ kiến tạo nên toàn bộ đời
sống phụng vụ của Giáo Hội (GL 1087).
Nói cách khác, chỉ có phụng vụ Kitô Giáo mang đúng
nghĩa khi nền phụng vụ đó được cử hành dưới quyền điều
khiển của giám mục, những người kế vị các tông đồ.
Giáo
Hội địa phương được quy tụ và biểu lộ cách hữu hình khi
toàn thể dân Chúa được tập họp chung quanh giám mục của mình:
“Mọi tín hữu phải hết sức
quý chuộng đời sống phụng vụ của giáo phận chung quanh giám
mục, nhất là tại nhà thờ chánh tòa.
Họ phải xác tín rằng Giáo Hội được biểu hiện chủ
yếu trong việc toàn thể dân thánh tham dự đầy đủ và tích
cực vào các buổi cử hành phụng vụ, nhất là trong cùng một
hiến lề tạơn, một lời cầu nguyện chung, ở một bàn thờ
mà giám mục chủ sự giữa linh mục đoàn và các cộng tác
viên của ngài” (PV 41).
Chính
Chúa Kitô tập họp các tín hữu chung quanh giám mục để liên
kết họ trong một cử hành duy nhất.
Mầu nhiệm Chúa Kitô Toàn
Thể (le Christ Total) là nguyên lý nền tảng của phụng vụ
Kitô giáo, trong đó mỗi người theo phận sự của mình, vừa
để diễn tả tính đa dạng của Giáo Hội vừa biểu lộ sự
duy nhất dưới quyền chủ toạ của giám mục.
Bởi vì khi Giám Mục chủ toạ cộng đoàn phụng vụ, ngài
hành động trong tư cách là đầu, có các cộng tác viên bao
quanh như linh mục, phó tế, các thừa tác viên khác và dân
Chúa tạo nên một cộng đoàn hiệp nhất, gồm đầu và các
chi thể.
Trong ý nghĩa này, các linh mục và những người chủ toạ các buổi cử hành phụng vụ cần phải liên kết với giám mục và hành động trong sự hiệp thông và dưới quyền của giám mục. Người ta không thể chủ toạ cử hành phụng vụ hợp pháp khi bị giám mục ngăn cấm. Hơn nữa Công Đồng Vatican II cũng đặc biệt nhấn mạnh việc tham dự của dân Chúa, vì khi tham dự phụng vụ người tín hữu thi hành chức năng tư tế lãnh nhận bởi bí tích Thánh Tẩy. Công đồng mời gọi mọi người tham dự vào phụng vụ cách đầy đủ, ý thức, linh động và tích cực (PV 11, 14).
BÀI
HỌC GHI NHỚ
|
[1] Bản
LXX là bản Kinh Thánh Cựu Ước được dịch sang tiếng Hy
lạp, và theo truyền thuyết được dịch tại Alexandrie (Ai Cập)
vào thế kỷ III trước Công nguyên, nhằm phục vụ cho người
Do thái ngoại kiều.
[2] Adolf
ADAM, La ligurgie aujourd’hui, Brepols
1989, trang 13
[3] Ba
chức năng người tín hữu lãnh nhận bởi bí tích Thánh
Tẩy là Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế.
[4] Bản
dịch Việt ngữ về các văn kiện Công Đồng Vatican II,
được trích từ bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện Pìo X,
Đà Lạt, 1972.