|
VietCatholic News (Thứ Ba 18/11/2003)
ROME (Zenit,org).-Giải đáp do cha Edward McNamara, giáo
sự phung vụ tại Đại học Giáo Hòang Regina Apostolorum.
Trong việc xử dụng âm thạc tân thời trong Thánh lễ,
phải theo những tiêu chuẩn nào? Có được dùng những bài
hát Tin Lành không? Phải áp dụng những tiêu chuẩn nào
trong những trường hợp này? P.C.,Honolulu, Hawaii
Trước hết cần phải nhớ rằng sự lựa chọn một
bản văn hay một bài hát không được hoàn toàn tự
tiện, nhưng đòi hỏi phải xử dụng những bản văn
hợp thức hóa.
Theo Qui Chế Tổng Quát Mới trong Sách Lễ Qui Roma (GIRM),
khi giải thích những phương thức khác biệt để hát các
phần riêng của Thánh Lễ, được nói đến trong phần
thứ Tư và phần cuối cùng, "một bài hát phụng
vụ xứng hợp cũng được Hội đồng Giám mục hay Giám
Mục Giáo phận chuẩn y."
Những sự lựa chọn khác là: (1) điệp ca ghi trong Sách
Lễ Roma hay là Thành vịnh ghi trong sách Roman Gradual nói
về âm nhạc và những sắp xếp khác trong âm nhạc; (2)
điệp ca theo mùa và Thánh vịnh của Simlex Gradual; (3) môt
bài hát ghi trong một sưu tập khác về thánh vịnh và điệp
ca, được hội đồng giám mục hay giám mục giáo phận
chuẩn nhận, kể cả những thánh vịnh sắp xếp trong các
hình thức đáp ca hay nhịp điệu (Số 48, số 86 và 87).
Khi qui chiếu cách riêng đối với Hoa Kỳ, qui chế
khẳng định: "Phải ghi nhớ rằng phần quan trọng
để hát trong một nghi lễ là một phần cần thiết hay
trọn vẹn theo Phụng vụ, tất cả những sắp xếp âm
nhạc của những bản văn cho các câu đáp và tung hô
của giáo dân trong Nghi Thức Thánh Lễ và cho những nghi
thức riêng theo năm phụng vụ, phải được đệ trình lên
Phòng Thư ký Phụng vụ của Hội đồng Giám mục Hoa
Kỳ để duyệt xét và chuẩn y trước khi phổ biến
"(Số 393).
Một số Hội đồng Giám Mục đã phổ biến những tập
sách thánh ca chính thức có thể xử dụng trong phụng
vụ, đang khi các Hội Ðồng Giám Mục khác còn đang
sắp đặt một hệ thống để phê chuẩn những bản văn
âm nhạc. Giám mục giáo phận có thể tự mình quyết định
cung cách để phê chuẩn những thánh thi và những bài hát
xử dụng trong phụng vụ, Ngài có thể phổ biến một
tập thánh ca chogiáo phận hay chỉ hạn chế trong việc
phê chuẩn bất cứ sách hát nào về thánh thi hay phụng
vụ có imprimatur (phép in) của một giám mục khác.
Điều quan trọng là sự lựa chọn các bản văn và âm
nhạc trong phụng vụ không phải là một vấn đề sở
thích cá nhân, nhưng còn phải kéo theo vấn đề sâu xa hơn
là sự hiệp thông giáo hội
Nói chung những tiêu chuẩn được xử dụng để phê
chuẩn những bản văn thích hợp thánh thi hay thánh ca
phải được linh hứng bởi Kinh Thánh hay phụng vụ,
mặc dầu mang hình thức thi ca, và bản văn phải là
một sự tuyên xưng đức tin, bằng cách diễn tả những
chân lý đời đời và chính thống hơn là những vấn đề
hiện hành.
Điều này phải được quan tâm trong trường hợp các bài
Thánh Ca Tin lành. Những bản thánh ca đó có thể dùng
trong phụng vụ miễn là đúng với giáo lý Công giáo.
Bất cứ bài thánh ca nào chứa đựng giáo lý đi nghịch
lại những huấn giáo Công Giáo hay còn mơ hồ thì không
thể dùng được.
Những bài hát phụng vụ là để giúp cầu nguyện, nên
phong cách và âm thanh phải được phân biệt với lối
nhạc đời. Nhiệm vụ của thánh ca là nâng cao tinh
thần--chớ không phải để nhịp chân hay kích thích trí
tưởng tượng. Do đó, những bài hát thánh ca không bao
giờ được coi phóng tác theo những những bản nhạc
nổi tiếng hiện nay-- hay là như thường thấy xuất
hiện đến những bản nổi tiếng từ các thế hệ trước--nhưng
phải tìm cách diễn tả giá trị tôn giáo của bản văn
vì theo truyền thống Công giáo, bản văn luôn luôn phải
được coi trọng hơn là âm nhạc và hiểu theo nghĩa là
linh hồn âm nhạc.
Tình trạng thiếu thốn bài hát phụng vụ thì cũng là
điều dễ hiểu, vì sau khi được xử dụng ngôn ngữ địa
phương, các giáo xứ cảm thấy mình cần đến âm nhạc
thích hợp cho phụng vụ mới. Tập thánh ca với những bài
sáng tác theo ngôn ngữ địa phương ngữ và Latin truyền
thống được coi như là không đủ, hay còn tệ hơn nữa
là đã lỗi thời hay không còn thích hợp. Vì những bài
nhạc Mozarts không phải rẻ tiền, và thúc bách đến nhu
cầu có các bản nhạc mới cho nên hầu hết các giáo
xứ xử dụng những gì đã có và lấy một số bài ít
giá trị hơn mặc dầu cũng có được một số sáng tác
hay.
Nói chung hầu hết tất cả các nơi đều kinh nghiệm đến
một thời đáng sợ, nhất là vào thập niên 1970. Thí
dụ như tại Tây ban nha, nhiều bài nhạc đời của Mỹ
hay Anh được chuyển ra lời Tây Ban Nha để hát trong Thánh
Lễ như bài "Nobody Knows the Troubles I've Seen" hay là
"Land of Hope and Glory" phóng ra trong Thánh Lễ, hay
là cả bản "Lord Have Mercy" và "Sanctus"
lấy từ "Hey Jude" và "Help" của ban
nhạc Beatles.
Sự phàm tục hóa trong lãnh vự thiêng liêng là một
vấn đề tái diễn trong âm nhạc Giáo hội và luôn luôn
bị chống đối mạnh.
Vào thời điểm của Công đồng Trent, nhiều giám mục
phàn nàn và phê bình đến việc xử dụng những bài hát
đời trong việc hòa âm và đối âm, như một bài dựa
theo một bài hát ngắn bình dân gọi là "Bacciami
amica mia" (Kiss me, my dear). Thánh Pius X, với tư cách
vừa là Giám mục vưa là Giáo Hoàng, cũng chống đối
cung cách theo kiểu nhạc kịch cá nhân trong thánh đường
tại Ý.
Mặc dầu chậm chạp nhưng qua những năm gần đây đã
cho thấy sự cải thiện trong nhiều nơi. Cùng với việc
lấy lại nhiều bài hát truyền thống, và cũng có môt
số người trở lại dùng các bài bình ca Gregorien và bài
hợp âm nhiều bè cổ điển, hiện nay một số các tác
giả đã nghiêm chỉnh sáng tác theo âm nhạc phụng vụ.
Ví dụ như tại Nước Ý, đã cho thấy nhiều tác phẩm
tuyệt vời có thể dễ dàng cung cấp một điểm chuẩn
cho công việc của các nhà sáng tác theo những ngôn ngữ
khác. Đáng kể hơn hết là công trình của Ðức Ông
Marco Frisina, lời nhạc được linh hứng theo kinh thánh và
âm nhạc phụng vụ của đức ông vừa phong phú vừa
dễ nhớ, có thể cho phép cộng đồng hát đồng giọng
hoặc cho ca đoàn hát hợp ca bốn bè. Mặc dầu có thể
phải trải qua nhiều thập niên, thế nhưng mộtsưu tập
mới về âm nhạc phụng vụ tốt đẹp sẽ được thành
hình theo các nguyên tác của Công đồng Vatican II và
truyền thống Công giáo chân chính. * * * Hôn bình an
Nhiều độc giả gợi lên những điểm đáng chú ý liên
quan tới việc hôn bình an. Một dộc giả từ Toronto
hỏi về lịch sử sự hôn bình an và được du nhập khi
nào.
Hôn hay dấu chỉ chúc bình an có từ những thời kỳ đầu
tiên được linh hứng qua lời mời gọi của thánh Phaolô
Tông Ðồ gởi tín hữu Corintô: "Anh em hãy hôn chào
nhau một cách thánh thiện" (1 Co 16:20). Chúa Giêsu thúc
giục người ta làm hòa với một người anh em mình trươc
khi dâng lễ nơi bàn thờ, Sự hôn bình an cũng là sự
trả lời minh nhiên cho lời khuyên của Ðức Kitô phải
thực hiện sự hoà giải và bình an huynh đệ đễ thanh
tẩy hy lễ của mình.
Nghi thức được nhắc tới trong những tài liệu xưa như
"Apostolic Constitutions" và những bài giảng của
thánh Augustinô.
Đầu tiên, hôn bình an được xem như là một sự chuẩn
bị quan trọng và đôi khi có tính cách bắt buộc đối
với những người sắp lên Rước Lễ, nhưng sau áp
dụng cho tất cải mọi người. Sau năm 1000, sự hôn bình
an lần lần biến thành một nghi thức chính thức hóa hơn
và sau này chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ ngoại trự
trong một số dịp đặc biệt.
Như vậy dấu chỉ chúc bình an như được diễn tả
trong sách lễ hiện nay, đại khái lập lại theo hình
thức đã có từ thời trung cổ khi mỗi người hôn bình
an người đứng bên cạnh mình. Trong thời dó cử chỉ hôn
là một dấu chỉ cung kính hơn là tình thương. Do đó,
cử chỉ áp dụng ngày nay phải là điều mà tập quán
địa phương coi như một cử chỉ cung kính.
Một độc giả từ Kentucky hỏi linh mục hay phó tế có
được lựa chọn xử dụng những hình thức khác để
mời làm dấu chỉ chúc bình an ngoài hình thức đã có
trong sách lễ và "linh mục có dược phép thay đổi
những lời mời gọi như 'Nếu anh chị em muốn, anh chị
em có thể ban cho nhau dấu chỉ bình an,' như vậy là cho
người ta tự ý lựa chọn hay không?"
Mặc dầu sách lễ bằng tiếng Anh thật sự hạn chế
trong phương diện này, những ngôn ngữ khác như tiếng
Ý và Tây ban nha cung cấp nhiều công thức cho dấu chỉ
chúc bình an, một số dấu đó phản ảnh theo mùa phụng
vụ. Như vậy có thể có những thay đổi nhỏ trong lời
mời gọi.
Tuy nhiên tôi không chắc là linh mục hay phó tế sẽ xử
dụng hình thức đặc biệt nào đó như độc giả chúng
ta trưng dẫn, thật ra thì đó là điều vụng về và
tốt hơn nên bỏ đi, vì như thế một số người có
thể sẽ không chúc bình an vì một lý do chính đáng (hơn
là việc không thích làm).
Việc này không phải là để tránh những khó khăn cho
những thành phần khó tính trong cộng đồng, bởi vì khi
một số người tự nhiện không thích bắt tay những người
hoàn toàn xa lạ, một sự mĩm cười và một cử chỉ
dịu dàng dịu dàng, thật không đáng gì nhưng rất có
ý nghĩa.
Một linh mục từ một hoàn cảnh đa văn hóa trong đó
những người trong giáo xứ qua nhiều năm đã có thói
quen “kéo dài việc chúc bình an”, và vị linh mục ấy
đang gặp khó khăn để giải thích bản chất thât của
nghi thức này, đã hỏi: "Có được phép và tuân
giữ theo tinh thần GIRM nếu nghi thức kinh "Chiên Thiên
Chúa” là long trọng và nổi bật hơn là sự “kéo dài”
chúc bình an 'kéo dài'. . . theo tập quán của những
cộng đồng này?"
Tôi muốn gợi ý rằng linh mục cần nhẫn nại khi giải
thích nghi thức và những qui luật phổ quát hướng dẫn
việc xử dụng nghi thức đó. Trước hết, linh mục nên
động viên và khắc sâu sự hiểu biết thiêng liêng
của những người trong giáo xứ mình về ý nghĩa và
cử chỉ như là một sự chuẩn bị dọn mình Rước lễ
và hiệp nhất trong Thân thể Mầu nhiệm Chúa Kitô. Điều
này không bao giờ có thể coi bị giảm đi nhưng trái
lại là một dấu của tình thương yêu nhau, của tình liên
đới chủng tộc, hay là của bất cứ giá trị thuần túy
nhân bản nào khác.
Một khi việc giải thích này đã thực hiện, thật là
ý tưởng tốt để tăng cường sự nổi bật của kinh
"Chiên Thiên Chúa" cùng với sự tôn trọng lời
chúc bình an. Như vậy ca đoàn hay ca viên phải được
huấn luyện khi nào thì xướng kinh "Chiên Thiên Chúa,"
dành ra một khoảng thời gian ngắn để thích hợp cho
lời chúc bình an.
Ðể được long trọng hơn trong thời gian "bày tỏ
lời chúc bình an" cho tới kinh "Chiên Thiên Chúa",
nên dùng những kinh đơn giản hơn dễ hát cho toàn thể
cộng đoàn. Khi thói quen ban dấu chỉ bình an ngắn hơn
được thiết lập, ca đoàn có thể tùy nghi hát nhưng bài
thánh ca phức tạp hơn hay có thể hát kinh Gregorian.
Hát kinh "Chiên Thiên Chúa" một cách vui vẻ hơn
tùy theo hạn định là điều thích hợp theo thông tư và
tinh thần Sách Lễ Qui Roma, số 13)
Cử chỉ của Chúa Kitô bẻ bánh trong bữa Tiệc Ly cuối
cùng, điều này đặt tên cho toàn thể Hành Động Thánh
Thể trong thời các tông đồ, có nghĩa là nhiều người
tìn hữu làm nên một thân thể (2Cr 10:17) bằng cách Rước
Lễ từ một bánh sự Sống là Chúa Kitô, Người đã
chết và sống lại vì phần rỗi thế giới. Việc bẻ bánh
bắt đầu sau dấu bình an và được thực hiện với
vẻ cung kính cách riêng, dầu không nên kéo dài một cách
không cần thiết, cũng không nên cho nó một tầm quan
trọng không đáng.. . Kinh Chiên Thiên Chúa là một luật
buộc, do ca đoàn hay ca viên xướng được cộng đoàn hát
theo; hay ít nhất phải được đọc to tiếng. Sự cầu
xin này đồng hành với việc bẻ bánh nên vì lẽ này mà
có thể hát đi hát lại khi cần thiết cho tới lúc kết
thúc, lời hát kết với cụm từ 'dona nobis pacem'(xin ban
bình an cho chúng con)".* * * |
Ðức Ông Nguyễn Quang Sách
|
|