|
VietCatholic News (Chúa Nhật 7/12/2003)
Theo quyết định của Công Ðồng Va-ti-ca-nô II, Sách Lễ
Rô-ma (SLR) đã được sửa đổi. Ấn bản mẫu thứ
nhất đã được công bố năm 1970; ấn bản mẫu thứ
hai năm 1975 (bản này được dịch ra tiếng Việt và ấn
hành năm 1992). Ấn bản mẫu thứ ba đã được công bố
vào mùa thu năm 2000. Trong khi chờ đợi, Quy Chế Tổng Quát
(QCTQ, Instutio generalis) của ấn bản này đã được phát
hành trước bằng tiếng La-tinh.
Hội Ðồng Giám Mục (HÐGM) Hoa kỳ đã công bố bản đối
chiếu giữa hai QCTQ 1975 và 2000. Chúng tôi dựa vào bản
đối chiếu này, đồng thời cũng trực tiếp so sánh hai
quy chế để nêu ra một số những khác biệt giữa hai
bản. Vì chỉ có bản La-tinh của QCTQ 2000, nên khi nào không
rõ nghĩa, chúng tôi chua thêm nguyên văn trong ngoặc.
Nhìn chung, QCTQ 2000 trình bày chi tiết hơn QCTQ 1975 : có
399 số thay vì 341 số. Ðặc biệt, ngoài 8 chương của
QCTQ cũ, QCTQ mới có thêm chương 9 nói về "Các thích
nghi thuộc thẩm quyền của các giám mục và HÐGM",
cách riêng đưa ra một số nguyên tắc về hội nhập văn
hóa trong phụng vụ.
Chúng ta sẽ gom các nhận xét về QCTQ mới (các số trong
nặc là số của bản này) theo năm mục sau đây:
I. Phận sự của giám mục, linh mục và phó tế.
II. Phận sự của các thừa tác viên khác.
III. Các nghi thức phải giữ.
IV. Nhà thờ và các vật dụng phụng vụ.
V. Các thích nghi thuộc thẩm quyền của các Giám Mục và
HÐGM.
I. PHẬN SỰ CỦA GIÁM MỤC, LINH
MỤC VÀ PHÓ TẾ
1. Phận sự của giám mục
Giáo Hội địa phương cử hành phụng vụ chung quanh giám
mục của mình. Giám mục là người điều hành, phát huy
và giữ gìn toàn thể sinh hoạt phụng vụ trong giáo
phận. Thánh lễ do giám mục chủ tọa, với mọi thành
phần dân Chúa tham dự (linh mục, phó tế, giáo dân),
biểu lộ mầu nhiệm Giáo Hội và là mẫu mực của
mọi cử hành Thánh Thể trong toàn giáo phận (22).
Trong các thay đổi về thánh lễ do giám mục cử hành, có
thể nêu ra:
- Trong các cử hành long trọng, sau khi Tin Mừng được công
bố, giám mục có thể giơ cao Sách Tin Mừng để ban phép
lành cho dân chúng (171).
- Khi cử hành thánh lễ ngoài giáo phận, giám mục sẽ
đọc : cùng với Ðức Thánh Cha T., với con là tôi tớ
bất xứng của Cha và với người anh em con là Ðức Cha
T., giám mục giáo phận này (149).
2. Phận sự của linh mục
Cử hành thánh lễ gắn liền với sứ vụ linh mục, vì
thế mỗi linh mục nên cử hành thánh lễ hằng ngày
(19), hoặc đồng tế với các linh mục khác (114). Linh
mục được phép cử hành thánh lễ riêng (modo
individuali), nhưng không được cử hành cùng giờ mà
trong nhà thờ hoặc nhà nguyện có đồng tế, cũng không
được cử hành riêng Thánh Lễ Tiệc Ly và Canh Thức Vượt
Qua (199).
Trong thánh lễ, linh mục chỉ được thích nghi những
chỗ mà chữ đỏ dự trù; ngoài ra không được tự ý
thêm, bớt hoặc thay đổi (24).
Chẳng hạn, linh mục được phép nói đôi lời dẫn vào
một số nghi thức, như : trước nghi thức sám hối, trước
các bài đọc, trước lời Tiền tụng (nhưng không bao
giờ được nói trong chính Kinh Tạ Ơn) và trước phép lành
cuối lễ (31).
Trong thánh lễ đồng tế có giám mục chủ tế, nếu
linh mục đọc bài Tin Mừng, ngài phải xin và nhận phép
lành của giám mục; nhưng ngài sẽ không xin phép lành
nếu chủ tế là linh mục (212).
Bài diễn giảng thường do chủ tế, hoặc do một linh
mục đồng tế, hoặc đôi khi do thầy phó tế, nhưng không
bao giờ do một giáo dân. Trong trường hợp đặc biệt,
một giám mục hay linh mục không đồng tế cũng có thể
giảng (66). Khi giảng, linh mục đứng tại ghế chủ
tọa, hay tại giảng đài, hay tại một nơi nào khác thích
hợp; sau đó có thể giữ thời gian thinh lặng (136).
Một mình linh mục đọc Kinh Tạ Ơn. Giáo dân hiệp ý
trong thinh lặng, hoặc thưa các câu đối đáp đã được
dự trù, như : trước lời Tiền Tụng, kinh Thánh Thánh,
Thánh, tung hô sau truyền phép và Amen sau vinh tụng ca
kết thúc. HÐGM cũng có thể quy định các câu tung hô khác,
với sự phê chuẩn của Tòa Thánh (147).
Linh mục có thể trao bình an cho các thừa tác viên, và
cho một số ít tín hữu nếu có lý do chính đáng, nhưng
chỉ ở trong cung thánh. Giáo dân cũng trao bình an nhưng
chỉ cho những người đứng gần. Cách thức trao bình
anh do HÐGM quy định. Khi trao, có thể nói: "Bình an
của Chúa ở cùng ông/bà anh/chị. Người kia thưa : Amen
(82, 154).
Nghi thức bẻ bánh chỉ dành cho linh mục và phó tế
(83), vì thế thừa tác viên ngoại lệ trao Mình Thánh không
được làm.
3. Phận sự của phó tế
Tiếp theo QCTQ 1975, QCTQ mới nói về phó tế ở nhiều
chỗ, nhất là ở số 171-, nhưng chúng tôi tạm bỏ qua.
II. PHẬN SỰ CỦA CÁC THỪA TÁC VIÊN
KHÁC
Các người phục vụ bàn thờ có thể mặc áo dài
trắng (alba) hay y phục khác do HÐGM quy định. Trong số các
người này, QCTQ (187-198) đặc biệt nói đến thầy giúp
lễ và thầy đọc sách đã nhậc tác vụ (acolythus [rite]
institutus, lector [rite] institutus).
Khi số người rước lễ đông mà không có đủ linh
mục và phó tế, chủ tế có thể dùng các thừa tác viên
ngoại lệ trao Mình Thánh Chúa, tức là thầy giúp lễ đã
nhận tác vụ và những tín hữu đã được ủy nhiệm
theo nghi thức (qui rite deputate sunt). Khi cần thiết, chủ
tế có thể ủy nhiệm từng lần cho những tín hữu có
khả năng.
Những thừa tác viên này chỉ tiến tới bàn thờ sau khi
linh mục đã rước lễ, và luôn luôn phải nhận bình đựng
Mình Thánh từ tay chủ tế (162). QCTQ cũ (238) cũng như
mới (279) nói việc tráng chén là do chủ tế, phó tế
hay thầy giúp lễ; không thấy nói các thừa tác viên
ngoại lệ tráng chén.
Những phận sự không phải là riêng của linh mục hoặc
phó tế, có thể được cha xứ hoặc cha quản nhiệm nhà
thờ giao cho những giáo dân có khả năng và tư cách, qua
một nghi thức chúc lành hoặc một ủy nhiệm tạm
thời. Về phận sự phục vụ bàn thờ, phải theo các
quy định của giám mục giáo phận (100, 107).
III. CÁC NGHI THỨC PHẢI GIỮ
1. Phụng vụ Lời Chúa
Không được thay kinh Vinh Danh bằng bài nào khác (53). Sau
lời nguyện nhập lễ, linh mục tó thể nói rất vắn
tắt (brevissimis verbis) để dẫn vào Phụng vụ Lời Chúa
(128). Không bao giờ được thay các bài đọc và thánh
vịnh đáp ca, là lời Chúa, bằng những bản văn ngoài
Kinh Thánh (57). Thánh vịnh đáp ca thường lấy ở Sách Bài
Ðọc và nên hát, ít là câu đáp của giáo dân (61). Không
được phân chia các vai để đọc bài Kinh Thánh, trừ bài
Thương Khó trong Tuần Thánh (109).
Trong các Thánh lễ có giáo dân tham dự, khi đọc Kinh Thánh
luôn phải ở giảng đài (58). Khi linh mục đọc bài Tin
Mừng, mọi người quay về phía giảng đài để tỏ lòng
đặc biệt tôn kính Tin Mừng Chúa Kitô (133).
Lời nguyện tín hữu : linh mục đứng ở ghế chủ
tọa, chắp tay đọc lời mở đầu. Phó tế, thầy đọc
sách hay một người khác đứng ở giảng đài hoặc
một chỗ khác thuận tiện, quay về phía giáo dân, xướng
các ý nguyên; giáo dân đáp. Sau cùng linh mục dang tay đọc
lời nguyện kết (138).
Phụng vụ Lời Chúa phải được cử hành thế nào để
giúp suy niệm; vì thế cần tránh sự vội vàng hấp
tấp gây cản trở cho sự hồi tâm. Quy chế mới cũng
nhắc lại và nhấn mạnh tầm quan trọng của thinh lặng
trong cử hành phụng vụ. Sự thinh lặng là thành phần
của cử hành, chứ không phải là một gợi ý nên hay không
nên giữ. Những lúc thinh lặng là: trong nghi thức sám
hối và sau lời mời cầu nguyện; sau bài đọc 1 và bài
đọc 2 (có thể), sau bài diễn giảng; sau khi hiệp lễ.
Hơn nữa, ngay từ trước khi cử hành thánh lễ, còn nên
giữ thinh lặng trong nhà thờ, trong phòng thánh và ở
những nơi gần đó (45, 56).
Âm nhạc cũng góp phần quan trọng trong cử hành phụng
vụ. Linh mục, các thừa tác viên và dân chúng nhất
thiết phải hát vào các Chúa Nhật và lễ buộc (40). Ca
Ghê-gô-ri-ô vẫn giữ vị trí ưu tiên trong phụng vụ Rô-ma;
tuy nhiên không loại trừ các âm nhạc khác, nhất là
nhạc đa âm (polyphonia), miễn là phù hợp với tinh thần
phụng vụ và giúp mọi tín hữu tham dự tích cực (41).
Mùa Vọng được phép sử dụng nhạc cụ cách vừa
phải (moderatione). Còn Mùa Chay chỉ được dùng để đệm
tiếng hát; nhưng được phép sử dụng vào Chúa Nhật
IV, các lễ trọng và lễ Kính (313).
2. Phụng vụ Thánh Thể
Việc rước lễ dưới hai hình. Ngoài những trường
hợp dự trù trong các sách nghi thức (như ghi trong QCTQ
1975, số 242, khoản 1 đến 6), nay thêm những trường
hợp sau:
a) các linh mục không thể cử hành thánh lễ hay đồng
tế;
b) phó tế và các người phục vụ trong thánh lễ;
c) các thành viên các cộng đoàn, trong thánh lễ cộng đoàn
(missa conven-tualis);
d) trong thánh lễ cộng đồng (missa communitatis) : các
chủng sinh, các người tham dự tĩnh tâm hoặc tham dự
hội thảo về tu đức hay mục vụ.
Giám mục có thể ra những quy định trong giáo phận về
việc rước lễ dưới hai hình thức. Giám mục cũng được
quyền cho phép rước lễ dưới hai hình thức, mỗi khi
linh mục chủ tế xét là nên (opportunum), với điều
kiện: giáo dân được giáo huấn, không có nguy hiểm
phạm thánh, nghi thức không trở nên phức tạp vì quá
đông người hay vì lý do nào khác (283).
IV. NHÀ THỜ VÀ CÁC VẬT DÙNG TRONG
PHỤNG VỤ
1. Bàn thờ
Trong mỗi nhà thờ phải (expedit) có một bàn thờ cố định
(298); bàn thờ này cần được cung hiến (dedicetur, 300).
Trong các nhà thờ mới xây, chỉ nên có một bàn thờ,
để nói lên rằng chỉ có một Ðức Ki-tô và một phép
Thánh Thể. Trong các nhà thờ cũ, nếu bàn thờ cũ có giá
trị nghệ thuật mà không di chuyển được, thì có thể
giữ lại, nhưng không trang trí gì đặc biệt, rồi xây
một bàn thờ khác, cung hiến, và chỉ cử hành thánh
lễ trên bàn thờ mới này mà thôi (30).
Trên bàn thờ chỉ có thể đặt những gì cần để cử
hành thánh lễ; chén lễ, bình thánh, khăn thánh và sách
lễ được đặt từ lúc dâng lễ vật (306).
Việc chưng bông cần có chừng mực. Các bình bông nên
đặt chung quanh bàn thờ hơn là trên bàn thờ. Mùa Vọng
có thể chưng bông trên bàn thờ vừa phải, nhưng đừng
đi trước niềm vui lễ Giáng Sinh. Mùa Chay không được
chưng bông, trừ Chúa Nhật IV, các lễ trọng và lễ kính
(305).
Quy chế mới nhắc lại : trên hoặc chung quanh bàn thờ
phải có ít là hai chân nến, hoặc bốn, hoặc sáu,
nhất là các Chúa Nhật và lễ buộc; khi Giám mục giáo
phận cử hành thánh lễ, phải có bảy chân nến (117,
307).
2. Thánh giá
Trên hoặc gần bàn thờ, kể cả ngoài thánh lễ, thường
xuyên phải có một thánh giá, mà cộng đoàn có thể nhìn
thấy rõ ràng. QCTQ cũ chỉ nói trống là thánh giá
(crux), Quy chế mới nhấn mạnh ba lần : thánh giá có tượng
Chúa Kitô chịu đóng đinh, để nhắc cho các tín hữu
cuộc thương khó cứu độ của Chúa. Trong đoàn rước
đầu lễ có mang thánh giá; thánh giá này có thể đem đặt
gần bàn thờ, nếu không có thánh giá nào khác (117, 120,
122, 308).
3. Giảng đài
Quy chế mới nhắc lại: nơi công bố Lời Chúa phải là
một giảng đài cố định, chứ không phải là một giá
sách đơn giản, di chuyển được. Cách đặc biệt, từ
giảng đài sẽ đọc các bài đọc, thánh vịnh đáp ca và
bài công bố Tin Mừng Phục Sinh; từ đó cũng có thể
diễn giảng và xướng các ý nguyện của lời nguyện tín
hữu. Chỉ có thừa tác viên Lời Chúa mới được lên
giảng đài, còn những người khác, như ca trưởng, người
dẫn lễ v...v... thì không (309, 105 b).
4. Nhà tạm
Quy chế mới xác định thêm về nơi giữ Mình Thánh Chúa.
Không nên đặt nhà tạm trên bàn thờ dùng để cử hành
thánh lễ. Theo quyết định của giám mục giáo phận, có
thể đặt nhà tạm:
a) hoặc trong cung thánh, ngoài bàn thờ dâng lễ, nơi
thuận tiện hơn, chẳng hạn như bàn thờ cũ không dùng
để dâng lễ nữa;
b) hoặc trong một gian ngánh (sacellum) thích hợp cho việc
cầu nguyện, gắn liền với nhà thờ và giáo dân dễ
thấy (315)
Theo truyền thống, cạnh nhà tạm ngày đêm có đèn
chầu, đốt bằng dầu hoăïc sáp, để chỉ cho biết và
tôn kính sự hiện diện của Chúa Ki-tô (316).
5. Ghế của chủ tế
Chỗ thích hợp nhất là phía đầu cung thánh, nhìn
xuống giáo dân, trừ khi kiến trúc thánh đường hoặc
hoàn cảnh khác không cho phép, ví dụ : quá xa cộng đoàn,
hoặc nhà tạm ở chính giữa, phía sau bàn thờ (310).
6. Các bình thánh
Các bình thánh phải được phân biệt rõ ràng với chén
đĩa dùng thường ngày (332). Chén lễ nên có khăn phủ
(laudabiliter cooperiatur velo), màu theo ngày hoặc màu trắng
(80).
Trong phòng thánh, phải giữ thói quen có giếng thánh
(sacrarium) để đổ nước rửa các bình thánh và nước
giặt khăn (334, 280).
7. Bánh lễ
Quy chế mới nhắc lại quy chế cũ : phải làm bánh lễ
thế nào, để trong thánh lễ, linh mục có thể bẻ ra
nhiều phần và phân phát cho ít là một số tín hữu.
Tuy nhiên không loại trừ những bánh lễ nhỏ, khi lý do
mục vụ đòi hỏi. Cử chỉ bẻ bánh biểu lộ rõ hơn
ý nghĩa hợp nhất : mọi người cùng ăn một bánh, và
ý nghĩa bác ái : một bánh được chia cho nhiều người
(321). Có lẽ chúng ta nên nghiên cứu làm loại bánh lễ
to (ít là cho chủ tế), có khía sẵn để có thể dễ dàng
bẻ ra làm nhiều phần.
8. Làm phép các vật dụng phụng vụ
Ngoài việc làm phép các bình thánh (333), Quy chế mới còn
nói đến việc làm phép phẩm phục linh mục, phó tế và
các thừa tác viên giáo dân (335). Nên làm phép trước
khi dùng : giảng đài (309), ghế chủ tế (310), phong cầm
(organum 313), nhà tạm (314), theo nghi thức trong Sách Các
Phép.
V. CÁC THÍCH NGHI THUỘC THẨM QUYỀN
CỦA CÁC GIÁM MỤC VÀ HÐGM
Các thích nghi này được nói đến trong chương 9, một
chương hoàn toàn mới của QCTQ 2000.
1. Thẩm quyền của giám mục giáo phận
Giám mục có nhiệm vụ nuôi dưỡng tinh thần phụng vụ
nơi linh mục và giáo dân, điều hành sinh hoạt phụng
vụ trong giáo phận (387). Cách riêng, giám mục điều hành
kỷ luật đồng tế (202), quy định về phận sự giúp
linh mục tại bàn thờ (107), về việc cho rước lễ dưới
hai hình (283), về việc xây cất và bố trí các nhà
thờ (291).
2. Thẩm quyền của HÐGM
Quy chế mới trình bày khá dài (388-399) về vai trò của
HÐGM trong lãnh vực phụng vụ, nhất là trong việc thích
nghi. HÐGM có những nhiêm vụ sau:
a) Xác định những thích nghi dự trù trong SLR với sự
chuẩn y của Tòa Thánh, đó là :
- cử chỉ và tư thế của giáo dân (24, 43);
- cử chỉ tôn kính bàn thờ và Sách Tin Mừng (273)
- bản văn các bài ca lúc nhập lễ, chuẩn bị lễ vật
và rước lễ (48, 74, 87);
- các bài đọc Kinh Thánh dùng trong các dịp đặc biệt
(382)
- hình thức trao bình an (82)
- cách thức rước lễ (160-161, 254)
- chất liệu bàn thờ và các vật dụng phụng vụ,
nhất là các bình thánh (301, 329, 332)
- chất liệu, hình thức và màu sắc các phẩm phục
phụng vụ (342, 343).
Những Chỉ dẫn mục vụ mà HÐGM xét là hữu ích, có
thể được đưa vào SLR, sau khi được Tòa Thánh chấp
thuận (390)
b) Cho phiên dịch SLR và các bản văn Kinh Thánh dùng trong
phụng vụ. Khi dịch, cần lưu ý đến các loại văn khác
nhau trong phụng vụ và Kinh Thánh, đồng thời dùng ngôn
ngữ trang trọng nhưng vừa tầm giáo dân hiểu được và
thích hợp cho việc công bố (publica proclamatio) (389,
391-392).
c) Chấp thuận các điệu nhạc dùng trong Nghi thức Thánh
lễ, trong các lời đáp và tung hô của giáo dân, và
trong các nghi thức đặc biệt trong năm phụng vụ. HÐGM
cũng xét những hình thái âm nhạc và những nhạc cụ có
thể được dùng trong phụng vụ (383).
d) Soạn lịch riêng cho mỗi quốc gia; mỗi giáo phận cũng
phải có lịch riêng và bản văn các thánh lễ riêng
(394).
e) Ðề nghị với Tòa Thánh nhưng thích nghi sâu hơn, để
phụng vụ đáp ứng dặc tính và truyền thống của các
dân tộc khác nhau, nhất là những dân tộc mới được
nghe loan báo Tin Mừng. Việc hội nhập văn hóa này cần
phải được nghiên cứu cẩn thận và được thử
nghiệm trước. Vấn đề quan trọng là làm sao duy trì đức
tin toàn vẹn và không làm mất tích duy nhất của nghie
lễ Rô-ma (395-399).
Vì thời giờ eo hẹp và vì thiếu tài liệu tham khảo,
chúng tôi chưa có thể đi sâu lắm trong công việc đối
chiếu. Tuy nhiên phần nào chúng ta đã thể thấy một
số những thay đổi về nghi thức.
Nhưng chúng ta đừng nên quên rằng : phụng vụ không
phải chỉ có nghi thức, mà còn có ý nghĩa sâu xa, là lý
do, là lý do của những nghi thức. QCTQ 1975 đã nhiều
lần nói đến ý nghĩa này, QCTQ 2000 lại còn nói nhiều
hơn nữa.
Chúng ta cần học hỏi kỹ QCTQ của SLR để thấy rằng
trong đó có nhiều cái hay mà mình vẫn chưa áp dụng. Có
vậy chúng ta mới có thể cử hành thánh lễ cách ý
thức, linh họa hơn và do đó đem lại lợi ích thiêng liêng
cho chính mình cũng như cho cộng đoàn tín hữu.
|
Ðức Ông Phanxicô Borgia Trần Văn Khả - Rôma
|
|