BÀI
I
KHÁI
NIỆM VỀ CA HÁT
DÀN
BÀI
II.
Điểm khác biệt giữa giọng hát và nhạc khí
III.
Sự cần thiết của việc luyện tập thanh nhạc
1.
Ca hát là bộ môn nghệ thuật phối hợp giữa ngôn ngữ và âm
nhạc, gọi là thanh nhạc, nó khác với khí nhạc là loại âm
nhạc viết riêng cho nhạc cụ diễn tấu. Ai trong chúng ta cũng đã
từng hát, hoặc ít nhất cũng đã từng nghe người khác hát. Một
người hát goi là đơn ca, hai ba người hát gọi là song ca, tam ca
... nhiều người cùng hát một lời ca, một giai điệu là đồng
ca. Còn nếu hát theo nhiều bè, nhiều giai điệu khác nhau gọi là
hợp ca (Hợp xướng).
2.
Chắc tiếng hát đã có rất sớm cùng với tiếng nói của con người
phát xuất từ tôn giáo, lao động và giải trí. Nhưng nguồn gốc
sâu xa nhất của tiếng hát là do nhu cầu muốn diễn đạt tình ý
của mình một cách có hiệu quả hơn trên tâm hồn người nghe :
con người lúc đầu chủ yếu dùng ngôn ngữ để thông đạt cho
nhau những ý nghĩ, tình cảm của mình. Dần dà con người tìm cách
diễn đạt tình ý một cách khéo léo hơn, tài tình hơn, tức là có
nghệ thuật hhơn qua các bài văn, bài thơ. Và yếu tố âm nhạc,
tiềm ẩn trong câu nói, trong cầu thơ, đá càng ngày càng rõ rệt
hơn trong các kiểu nói diễn cảm, các bài đọc trang trọng (như
đọc diễn văn), các câu rao hàng, câu ngâm thơ. Nó xuất hiện rõ
nét trong các câu hò nhất là trong các bài hát nhằm tăng sức
diễn cảm tối đa cho lời nói. Thanh nhạc đã ra đời dựa trên
ngôn ngữ của từng dân tộc, và nó càng ngày càng được nâng
cao cùng với các bộ môn nghệ thuật khác như văn thơ, hội hoạ,
sân khấu, vũ nhạc ... Do đó mỗi dân tộc ít nhiều đều có
những kinh nghiệm thanh nhạc riêng mình. Vấn đề hiện này của
người học thanh nhạc là làm sao học được kinh nghiệm hay của
các dân tộc khác mà không bỏ mất kinh nghiệm quý báu của cha ông
để lại.
3.
Tiếng hát, chính là tiếng nói được khuyếch đại, được thổi
phồng lên về mặt hình thức (thanh điệu của ngôn ngữ) cũng như
về mặt nội dung (ý nghĩa của ngôn ngữ), nhằm đánh động tâm
hồn người nghe. Muốn đánh động tâm hồn kẻ khác, thì tiếng hát
trước hết phải xuất phát từ tâm hồn người sáng tác, người
diễn tấu, và như vậy ta mới thấy “Tiếng hát thực sự là
tiếng nói của tâm hồn”, như người ta thường nói. Muốn đạt
đến cái hay, cái đẹp trong ca hát, bất cứ người diễn tấu nào,
người ca sĩ nào, người ca viên nào cũng phải tìm cho ra cái hồn
của bài hát, rồi truyền đạt nó đến tại người nghe bằng
một giọng hát điêu luyện nhất.
II.
ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA GIỌNG HÁT VÀ NHẠC KHÍ
1.
Giọng hát của con người được coi như một “Nhạc khí sống”
quý báu, không nhạc khí nào sáng bằng, vì ngoài những âm thanh
cao thấp, dài ngắn, mạnh nhẹ, trong đục, giọng người còn có
khả năng phát ra lời, ra tiếng : Chính nhờ ngôn ngữ mà tiếng hát
có sức biểu hiện lớn lao, có khả năng diễn đạt tình ý cách
hữu hiệu, có tính giáo dục cao về nhiều phương diện. Ngôn
ngữ làm cho âm nhạc được cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, nên dễ
đi sâu vào mọi tầng lớp xã hội. Thanh nhạc nhờ đó mà trở thành
bộ môn nghệ thuật có tính đại chúng cao nhất.
Ngoài
ra giọng hát con người còn có thuận lợi là bất kỳ lúc nào và
nơi nào cũng có thể dùng đến được : Ai cũng có “Nhạc khí
sống” và hầu như ai cũng hơn kém sử dụng nó một cách dễ dàng
: Đơn ca, tốp ca, đồng ca hay hợp ca, tất cả đều ở trong tầm
tay của mọi người.
2.
Tuy có những điều thuận lợi trổi vượt như thế nhưng so với
các nhạc khí khác, giọng hát cũng có những giới hạn khiêm tốn
của nó.
a)
Âm vực giọng hát giới hạn hơn rất nhiều nhạc khí :
giọng hát con người, cả nam lẫn nữ nối lại, cũng chỉ hát
được khoảng 4 bát độ (gọi là bốn bát độ hợp ca).
b)
Giọng hát dễ bị ảnh hưởng bởi mọi diễn biến tâm sinh lý
của người hát (lo sợ, bệnh tật, thời tiết ...)
c)
Ngoài những quy luật chung về âm thanh, về kỹ thuật âm nhạc,
về thẩm mỹ ... giọng hát còn bị chi phối bởi quy luật về ngôn
ngữ và về phong cách diễn xướng của từng dân tộc. Do vậy phương
pháp ca hát bao giờ cũng gồm 2 mặt : Một là học kỹ thuật thanh
nhạc qua các bài luyện thanh : hai là học cách xử lý ngôn ngữ riêng
cho từng dân tộc.
III.
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THANH NHẠC
1.
Khi hát, chúng ta khai thác các tính chất của âm thanh một cách đậm
nét hơn là khi nói. Nên muốn hát cho tốt, cần phải tập luyện
kỹ hơn là khi nói bình thường. Vậy chúng ta sẽ phải tập
luyện gì ? Đối với các ca viên trong ban hợp ca, chúng ta không
thể đòi hỏi họ luyện tập được như các ca sĩ chuyên nghiệp.
Và dù nếu có thì cũng không nên để họ hát tự do theo lối hát
mà họ hấp thụ được nếu nó không hoà giọng với toàn ban
hợp ca. Đàng khác có những điểm trong lối hát ca kịch Tây phương
(opéra) xem ra không đẹp và không phù hợp với tâm hồn người
Việt Nam.
Trong
lá thư đề ngày 6 tháng 3 năm 1987 từ hải ngoại gửi về cho
học trò tại quê hương, nhạc sư Hải Linh đã căn dặn :
“Về
phát âm cho ca đoàn : Tôi nghiêng về phía tiếng “naturelle”
(giọng tự nhiên) hơn là (Voix travaillée” (giọng tập luyện) dành
cho ca sĩ, theo quan niệm Tây phương. Họ quan niệm “Vibrato”
(rung) bất cứ nốt nào ... còn nhạc Á đông, tuỳ hơi, tuỳ chỗ
mới rung ... Lịch sử Hy-lạp và Á đông ưa nghe tiếng naturelle hơn
travaillée. Thánh Ambroise tập hát cho dân chúng Milan theo naturelle.
Mgr. (ĐGM) Hồ Ngọc Cẩn ra luật “Người Nam đừng hát giọng Tây”,
phải tiếng hát “tự nhiên” cũng là vậy ... Nói thể để anh
em nghĩ và tham bán chương trình thanh nhạc cho ca trưởng sao cho
vừa cân, vừa lạng.”
Theo
tinh thần đó, chúng ta sẽ chỉ học những kỹ thuật thanh nhạc nào
phù hợp để không làm mất đi vẻ đẹp tự nhiên của giọng người.
Cụ thể là học về kỹ thuật hơi thở, về khẩu bình, về dội
âm (cộng minh) ... để cho giọng hát đầy dặn, có năng lực, phô
diễn được những câu nhạc dài ngắn, mạnh nhẹ, bổng trầm khác
nhau một cách nhuẫn nhuyễn, dần dần thù đắc được một
giọng hát khả quan hơn, mà lý tưởng hướng tới là một giọng
hát đẹp tự nhiên và thoải mái, không bị các cố tật làm
giảm thiểu sức truyền cảm của giọng hát.
2.
Ngoài ra, chúng ta còn phải học xử lý ngôn ngữ làm sao cho tiếng
hát luôn luôn rõ lời. Khi hát ngôn ngữ nào thì phải xử lý
tiếng hát theo ngôn ngữ đó, không có mẫu chung cho mọi ngôn
ngữ. Nhất là đối với ngôn ngữ Việt Nam, đơn vận đa thanh, các
vần đóng nhiều hơn các vần mở, thì vấn đề rõ lời mà vẫn
đẹp tiếng, vẫn ngân vang, quả là nhiều khi khó dung hoà. Vì
thế người sáng tác cũng như người ca viên cần nắm vững các
đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc, các đòi hỏi của nó, cũng
như kinh nghiệm của tiền nhân trong quá khứ để xử lý ngôn
ngữ dân tộc một cách xứng hợp với bản sắc riêng của dân
tộc mình. Nếu không học, không biết, thì nhiều khi chúng ta dễ
lầm lẫn, dẫn đến chỗ vọng ngoại, bắt chước người khác
một cách máy móc, nếu không nói là nô lệ, làm cho tiếng hát dân
tộc mất đi vẻ đẹp tự nhiên của nó.
{
THỰC TẬP
Sau
mỗi bài lý thuyết, sẽ có một số điểm thực hành. Không thể
học hết lý thuyết rồi mới học thực hành, nên có những điểm
thực tập trước rồi mới giải thích rõ ràng hơn ở những bài
sau.
1.
Tập lấy hơi :
a)
Khẩu hình hé mở để lấy hơi vừa bằng mũi
vừa bằng miệng.
b)
Lấy hơi sâu vào tận đáy phổi bằng cách hạ hoành cách mô
xuống, làm cho bụng và sườn căng ra.
c)
Đồng thời trương lồng ngực mà vẫn căng bụng để hơi tiếp
tục vào đầy cả phần trên của hai lá phổi (xem hình 3).
d)
Nén hơi trong giây lát.
đ)
Rồi thở ra từ từ bằng miệng, điều chế làn hơi sao cho đều.
2.
Tập xì
a)
Khẩu hình mở theo âm “i” để lấy hơi như trên.
b)
Lấy hơi nhanh vào sâu tận đáy phổi (hạ hoành cách mô, bụng hơi
căng).
c)
Và trương lồng ngực để hơi tiếp tục vào phần trên của hai lá
phổi.
d)
Nén hơi trong giây lát.
3.
Tập mẫu luyện thanh
Mẫu
I :
*
Yêu cầu của mẫu 1 (lúc đầu tập các âm hàng a), còn hàng b), c)
để tăng cường nếu có thì giờ).
1)
Tập lấy hơi 1 phách theo khẩu hình ô - nén hơi.
2)
Tập chữ M móc nối với chữ ô cho rõ ràng mà mềm mại.
3)
Tập khẩu hình âm A, tập cuống lưỡi khi đọc âm Ngô, Nga.
Lưu
ý : Khi đọc
chữ Ngô, chữ Nga chỉ có cuống lưỡi làm việc, tuyệt đối không
để cho hàm dưới nâng lên hạ xuống.
4)
Hát đều tiếng, rõ từng âm, chưa cần để ý đến cường độ.
Hát lên dần rồi xuống dần từng nửa cung, trong âm khu trung bình
của từng loại giọng.
{
CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP
1.
Ca hát phát xuất từ những hoàn cảnh nào ?
2.
Các điểm thuận lợi của giọng người so với các nhạc khí khác
là gì ?
3.
Tại sao cần học thanh nhạc ? Và nên học những gì ?
4.
Mục đích của việc học xử lý ngôn ngữ là gì ?