BÀI
6
CÁC YẾU TỐ NGỮ ÂM TRONG
ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT
Như
đã biết, học thanh nhạc, ngoài việc tập luyện một số kỹ
thuật cơ bản, còn phải học cách xử lý ngôn ngữ sao cho âm
thanh lời ca phát ra nghe được rõ ràng và bảo toàn tính thẩm
mỹ của ngôn ngữ từng dân tộc. Muốn xử lý ngôn ngữ Việt
Nam, trước hết chúng ta phải biết sơ lược về các yếu tố
ngữ âm cấu tạo nên từng tiếng, từng chữ (từng âm tiết)
của ngôn ngữ Việt Nam.
1. Tiếng Việt Nam là một
ngôn ngữ
đơn
vận (đơn âm, đơn lập) nhưng lại đa
thanh.
a. Đơn vận
:
Là
mỗi tiếng, mỗi chữ chỉ gồm có một vần, nên khi nói rời
từng tiếng, khi viết rời từng chữ, các vần các chữ không dính
kết lại với nhau như một số ngôn ngữ khác. Câu thơ lục bát
của Nguyễn Du :
“Trăm
năm trong cõi người ta
Chữ
tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
(Truyện
Kiều)
Gồm
14 vần, 14 âm tiết, viết và đọc tách bạch nhau, không dính kết
lại với nhau.
b. Đa thanh
:
Là
nhiều thanh điệu, nhiều dấu giọng. Cụ thể là có 6 thanh điệu,
được ghi bằng 5 ký hiệu khác nhau : dấu sắc (Á), dầu huyền (À),
dầu hỏi (Ả), dầu ngã (Ã ), dấu nặng (Ạ). (Gọi tắt là 5
dấu 6 giọng). Không có dấu gọi là thanh-điệu “ngang”.
2. Mỗi tiếng (mỗi âm tiết) có 3 yếu tố là âm đầu, vần và thanh điệu.
Thí
dụ trong chữ TOÀN
T
là âm đầu
OAN
là vần
Ø
là thanh huyền
(3
yếu tố này được thấy rõ, chẳng hạn trong lối nói lái của
Việt Nam :
Thí
dụ :
- Bí mật :
- Bật mí : đối vần, đổi thanh
- Bị mất : đối thanh
- Mất bị : đối âm đầu + đối vần ...).
Trong
3 yếu tố đó, thì VẦN lại gồm 3 yếu tố khác : âm đệâm + âm chính + âm cuối. Trong vần OAN, O là âm
đệm, A là âm chính, N là âm cuối.
Vậy
trong một âm tiết gồm tất cả 5 yếu tố :
-
Âm đầu
-
Âm đệm
-
Âm chính
-
Âm cuối
-
Thanh điệu (là yếu tố ảnh hưởng lên toàn âm tiết)
Ta
có sơ đồ các yếu tố của âm tiết như sau :
Thanh
điệu (5) |
|||
Âm
đầu |
Vần |
||
(1) |
Âm
đệm (2) |
Âm
chính (3) |
Âm
cuối (4) |
3.
Ví
trị âm đầu do các phụ âm
đảm nhận, gọi là các phụ âm đầu
a.
Đặc tính của các phụ âm là tự
nó không phát ra âm thanh lớn được, mà cần kèm theo một nguyên
âm, thì nó mới phát thành tiếng rõ ràng được. Khi đọc các
phụ âm, làn hơi phải vượt qua một vật cản nào đó do tác động
của môi lưỡi phối hợp, rồi mới đi ra ngoài theo đường
miệng. Muốn đọc rõ các phụ âm thì phải cấu âm cho đúng cách,
bằng cách tạo các điểm cản làn hơi bằng môi hay lưỡi (hình
8, 9, 10).
b.
Các phụ âm đầu Việt Nam gồm : B, C, CH, D, Đ, G (GH), GI, H, (K),
KH, L, M, N, NH, NG (NGH), PH, Q (U), R, S, T, TH, TR, V, X.
Nếu
phận loại dựa theo cách cấu âm, ta sẽ có 5 loại chính :
*
Phụ âm môi :
-
môi + môi : m - b ; (p) : bình minh
-
môi + răng : v - ph (f) : vi phạm
*
Phụ âm đầu lưỡi :
-
đầu lưỡi + răng trên : t - th : tinh thần
-
đầu lưỡi + hàm răng khít : x : xinh xắn
-
đầu lưỡi + chân răng-vòm cứng: n - đ - l : nó đẹp lắm
-
đầu lưỡi cong + vòm cứng : (l) - r - tr - s : rộn ràng, trong sáng
-
đầu lưỡi rung + vòm cứng : r (r rung hơi khác với r mềm ở hàng
trên) : run rẩy, rung rinh
-
đầu lưỡi bẹt + vòm cứng : d - gi : dòng giống
*
Phụ âm mặt lưỡi :
-mặt
lưỡi + vòm miệng : ch - nh : chi nhánh
*
Phụ âm cuống lưỡi :
-
cuống lưỡi ngoài + vòm mềm : kh - g (gh) : khiêng gánh
-
cuống lưỡi trong + vòm mềm : ng (ngh) - c (k,q) : ngông cuồng, nguy
kịch quá
·
Phụ âm thanh hầu
:- cuống lưỡi thụt về phía sau để thu hẹp thanh hầu : h : hầu hạ.
Lưu ý :
-
âm l
có thể cấu âm ở cả 2 vị trí. Đối với người thường
đọc lộn l ra n, và n ra l thì nên dùng
l cong lưỡi để tập luyện. Không nên cong lưỡi quá, sẽ không
tự nhiên.
-
âm r mềm ở hàng trên đọc gần giống như chữ j trong tiếng Pháp.
Còn r rung thường gặp ở miền Trung, chỉ nên dùng để đọc các
chữ diễn tả sự rung động như : rung rinh, run rẩy, run run ... và
để đọc các chữ r của tiếng La-tinh như Ma-ri-a, Ro-sa ...
c.
Có một số âm tiết không có phụ âm đầu như ăn, uống, an ủi
... còn đa số các âm tiết đều có phụ âm đầu. Muốn cho rõ
tiếng, cần tập : “bật môi, đánh lưỡi” cho đúng cách. Vai trò
của lưỡi quan trọng nên người ta khuyên nên “đánh lưỡi bảy
lần trước khi nói” là vậy.
4.
Vần lại gồm 3 yếu tố khác
: âm
đệm + âm chính + âm cuối
a. Âm đệm
:
Được
ghi bằng bán âm u hoặc o. Đây
là âm làm tròn môi trước khi đọc âm chính, làm cho âm tiết có
âm sắc trầm tối (gọi là bán âm, vì mặt chữ thì giống như
nguyên âm, nhưng công dụng lại không giống như nguyên âm).
-
Chính tả ghi bằng u trước các nguyên âm vừa hoặc hẹp (uê, uơ,
uya).
-
Chính tả ghi bằng o trước các nguyên âm rộng (oa, oe) trừ khi trước
nó là phụ âm q thì lại ghi bằng u (qua, que = koa, koe).
-
Vì âm đệm là âm tròn môi, nên nó không đi trước các nguyên âm
tròn môi o, ô, u nữa.
-
Khi phát âm, không được dừng lâu
ở âm đệm, mà phải chuyển qua âm chính ngay.
b. Âm chính
: Vị trí âm chính do các nguyên âm
đảm nhiệm
-
Nguyên âm : là những âm tự nó phát ra âm thanh mà không
cần nhờ tới một âm nào khác : làn hơi từ phổi ra qua thanh đới
mở-đóng tạo cao độ của âm thanh, còn hình
thể các khoang họng và khoang miệng khác nhau, do hoạt động
của lưỡi và hàm dưới, sẽ tạo ra các nguyên âm khác nhau (hình
11).
-
Phân loại : có hai loại nguyên âm chính là nguyên âm đơn (a, ă,
â, o, ô, ơ, u, ư, e, ê, i/y) và
nguyên âm phức (ia (iê), ưa (ươ), ua (uô)).
*
Dựa trên vị trí của lưỡi, người ta còn phân ra :
+
Nguyên âm hàng trước (lưỡi
đưa ra trước, âm sắc sáng, bổng, môi bẹt) : e, ê, i/y, iê (ia).
+
Nguyên âm hàng giữa (lưỡi
nằm ở giữa, âm sắc trung hoà, môi không bẹt, không tròn) : a (ă),
ơ (â), ư, ươ (ua).[1]
+
Nguyên âm hàng sau (lưỡi rụt
về sau, âm sắc tối, trầm, môi tròn) : o, ô, u, uô (ua).
*
Dựa trên độ mở của miệng, ta có 4 loại :
+
Nguyên âm rộng : e, a, o (âm lượng
lớn)
+
Nguyên âm vừa : ê, ơ, ô (âm lượng
vừa)
+
Nguyên âm hẹp : i, ư, u (âm lượng
nhỏ)
+
Nguyên âm hẹp mở qua vừa : iê,
ươ, uô (âm lượng nhỏ và lớn dần đến vừa)
Ghi chú :
-
ă là âm ngắn của a
-
â là âm ngắn của ơ
-
o và ô đôi lúc có dạng âm dài là : oo, ôô (xoong, bôông)
ia, ua, ưa là âm phức không có âm cuối (Td: chia, chua, chưa )
Ta
có bảng tóm kết các nguyên âm như sau :
-
Âm chính cùng với thanh điệu là
hai yếu tố tối thiểu phải luôn luôn có mặt trong âm tiết,
nếu không sẽ không có âm tiết : ả, ổ, ố ...
c. Âm
cuối
:
Vị
trí âm cuối do các bán âm cuối
và phụ âm cuối đảm nhận.
*
Bán âm cuối có 2 loại :
–
Bán âm cuối bẹt miệng (lưỡi
đưa ra trước) được ghi bằng i hoặc y :
+
Được ghi bằng y sau các nguyên âm ngắn ă, â : ăy, âu (hãy lấy
: đáng lẽ ra chính tả phải ghi “hẵy” mới đúng ngữ âm).
+
Được ghi bằng i sau tất cả các nguyên âm còn lại mà không
bẹt miệng (tức là bán âm i không đi sau các nguyên âm hàng trước,
bẹt miệâng) : ai ơi, ưi, ươi (ai # ăy) oi, ôi, ui, uôi.
–
Bán âm cuối tròn môi (lưỡi
rụt vào trong) được ghi bằng u hoặc o :
+ Không đi sau các nguyên âm hàng sau (tròn môi)
+ Được ghi bằng u
sau các âm ngắn : âu, ău (trâu, tàu : đáng lẽ chính tả phải ghi
“tằu” mới đúng ngữ âm)
+
Được ghi bằng u sau các âm
vừa và âm hẹp : du, ưu, ươu, êu, iu, iêu (yêu)
+
Được ghi bằng o sau các âm
rộng a, e = ao, eo (ao # ău)
Lưu ý : khi
gặp ay thì phải phân tích là ăy, khi gặp au thì phải phân tích là
ău
*
Phụ âm cuối gồm 8 âm chia làm 4
cặp như sau :
–
Phụ âm môi : m - p (đóng tiếng
bằng 2 môi) : làm đẹp, rập rạp ...
–
Phụ âm đầu lưỡi : n - t (đóng
lưỡi lên chân răng) : ban hát, sền sệt ...
–
Phụ âm mặt lưỡi : nh - ch (đóng
mặt lưỡi lên vòm miệng) : chênh chếch, rách, rình
Lưu ý
: nh - ch chỉ đi sau các nguyên âm hàng trước e - ê - i : enh ech, ênh
êch, inh ich. Do đó, khi chính tả ghi anh, ach, ta phải phân tích là
enh ech mới đúng.
–
Phụ âm cuống lưỡi : ng - c (đóng
cuống lưỡi lên vòm mềm) : vang, dốc, vằng vặc ...
Lưu ý : khi
ng - c đi sau các nguyên âm hàng sau o - ô - u, thì không phải chỉ
đóng cuống lưỡi, mà còn phải đóng ngay cả 2 môi nữa (ta phải
ộc tiếng làm cho 2 má hơi
phồng lên để tạo khoảng vang trong miệng).
Ghi
chú :
-
Các phụ âm cuối p, t, ch, c chỉ đi với thanh điệu sắc hoặc
nặng, làm cho vần phải đọc dứt sớm hơn các vần đóng cùng
loại, cổ thi gọi các vần đó là vần chết (tử vận).
-
Khi vần có các âm cuối, thì âm chính ít nhiều bị ảnh hưởng -
nó làm cho độ mở của miệng giảm bớt, ngắn lại.
-
Các vần có âm cuối gọi là VẦN ĐÓNG, các vần không có âm
cuối gọi là VẦN MỞ.
5. Thanh điệu
:
Gồm
có sáu thanh : (1) ngang, (2) huyền, (3) ngã, (4) hỏi, (5) sắc, (6)
nặng ; được ký hiệu phiên âm bằng số 1 - 6 theo thứ tự trên.
a.
Thanh điệu là yếu tố thay đổi
cao độ của âm tiết. Nó ảnh hưởng lên toàn bộ âm tiết,
nhưng khi viết nó được ghi trên hoặc dưới âm chính là nguyên
âm đơn. Gặp nguyên âm phức không kèm theo âm cuối thì nó được
ghi trên yếu tố đầu của âm phức (thí dụ : Chúa, chìa, chừa).
Nếu nguyên âm phức có kèm theo phụ âm cuối thì thường ghi thanh
điệu trên yếu tố thứ 2 của âm phức đó.
Thí
dụ : vướng, tiếng, chuồng.
b.
Phân loại dựa tên âm vực : có
2 loại cao và thấp
-
Âm vực cao : thanh ngang, thanh ngã, thanh sắc
-
Âm vực thấp : thanh huyền, thanh hỏi, thanh nặng
c.
Phân loại dựa trên âm điệu :
có 2 loại bằng và trắc
-
Âm điệu bằng : thang ngang, thanh huyền
-
Âm điệu trắc : (không bằng phẳng)
+
Có đối hướng (gãy) : thanh ngã, thanh hỏi
+
Không đối hướng : thanh sắc, thanh nặng
Có
thể tóm kết trong bảng sau đây :
Thí
dụ : “má, “hán” (khữ) đọc dài hơn là “mát” (nhập)
(thanh nhập đi với các âm cuối p, t, ch, c).
{ PHẦN THỰC TẬP
1. Tập đọc các nguyên âm
đơn hàng trước, hàng giữa, hàng sau
-
Phối hợp các phụ âm với các nguyên âm trên.
2. Tập đọc
các âm cuối :
-
Mai, măy, mao, mău, mam, máp, man, mát, mang mác ...
-
Tai, tăy, tao, tam, tan, tang ...
-
Mái, mắy, máo, mắu, mám, máp, mán, máng, mác. (Thay bằng các phụ
âm đầu khác).
3. Tập phân
biệt phụ âm đầu : xa # sa, la # na, tra # cha (thay các
nguyên âm khác).
4. Tập phân tích ngữ âm
tất cả các chữ trong bài “Khúc Nhạc Cảm Tạ” và tập đọc
cho đúng cách cấu âm của từng chữ, nhất là các phụ âm đầu
và âm cuối : “Tình Chúa cao vời, ôi tình Chúa tuyệt vời, Người
đã yêu tôi, muôn đời đã thương tôi, thương tôi từ thuở đời
đời. Người đã cho tôi tiếng nói tuyệt vời, âm thanh chơi vơi
ru hồn phơi phới, tiếng nói yêu thương, bay khắp muôn phương,
vang lên khúc nhạc cảm tạ ngàn đời” (56 âm tiết).
Phân
tích theo mẫu sau đây :
Bảng
phân tích ngữ âm và xử lý ngôn ngữ bài “Khúc Nhạc Cảm
Tạ” (xem giấy đính kèm)
- Lúc đầu chỉ phân tích đến mục “âm
cuối”, còn “loại vần”, và “xử lý cụ thể” sẽ điền vào,
sau khi đã học bài xử lý ngôn ngữ.
-
Xử lý cụ thể là xét vần đó hát như thế nào, mở đóng ra
sao, đóng ở dấu nào cụ thể trong từng bài hát.
5.
Ôn lại các mẫu luyện thanh đã
học.
{ CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP
1.
Đặc tính của ngôn ngữ Việt Nam là gì ?
2.
Cho biết âm tiết tiếng Việt gồm những yếu tố nào? Yếu tố nào
luôn luôn có mặt trong âm tiết ?
3.
Loại âm nào giữ vị trí âm đầu ? Âm chính ? Âm đêm ? Âm cuối
?
4.
Nguyên âm là gì ? Có những loại nào ? Liệt kê ra
5.
Phụ âm là gì ? Có những loại nào ? Liệt kê ra
6.
Tại sao gọi là bán âm ? Bán âm giữ những vị trí nào trong âm
tiết ?
7.
Phụ âm cuối là những âm nào ? Cấu âm ra sao ?
8.
Thanh điệu có mấy loại ? Vẽ bảng tóm kết các thanh điệu
[1]
Một số sách về Ngữ âm VN gọi là nguyên âm hàng sau không tròn
môi, so với các nguyên âm hàng sau tròn môi o-ô-u-uô. Ở đây
chúng tôi theo Ông Nguyễn Bạt Tụy, vì thấy tiện lợi cho ngườiời
học thanh nhạc. (Xem Nguyễn bạt Tụy,Ngôn ngữ học VN, Chữ và
Vần Việt khoa học,SG 1958, tr.50