Nhóm Quê Hương CHƯƠNG
V CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TRƯỜNG ĐỘ A.
tiết
tấu [ Rythme (Pháp),
Rhythmus (La-tinh) ] 1.
Khái
niệm : Âm nhạc thuộc loại nghệ thuật chuyển động
trong thời gian, có âm thanh trước, âm thanh sau nối tiếp nhau
từ đầu bài cho đến cuối bài. Các âm thanh chuyển động
từ đầu bài cho đến cuối bài, không phải một cách lộn
xộn như trong một đám đông vô trật tự, mà có một sự
sắp xếp thành từng nhóm nhỏ, nhóm lớn khác nhau. Tiết
tấu chính là sự sắp
xếp các âm thanh ngắn dài
khác nhau, thành từng nhóm
nhỏ, nhóm lớn theo tình
ý của người soạn nhạc. Vì
thế Platon đã định nghĩa : “Tiết tấu là sự sắp xếp
chuyển động”. Còn thánh Augustinô gọi “Tiết tấu là
nghệ thuật chuyển động khéo léo” (Ars bene movendi). Nhạc sĩ
Vincent d'Indy định nghĩa một cách khái quát hơn : “Tiết
tấu là sự trật tự và cân xứng trong không gian và thời
gian” (le rythme est l'ordre et la proportion dans le temps et
l'espace). 2.
Như vậy, tiết tấu là yếu tố xử lý trường độ của âm
thanh để tạo nên trật tự, ý nghĩa, sự hài hoà và sự
sống cho bản nhạc. Trong
thanh nhạc (có lời ca),
thì tiết tấu phải dựa trên
ý nghĩa lời ca (xem TD 27, 28, 29, 30, 31). Trong
khí nhạc (không có lời ca) thì tiết tấu dựa trên tình
ý của người soạn nhạc, được thể hiện qua các ý nhạc
chủ đạo (hoặc nhạc đề) và sự khai triển các chủ đề
đó theo nguyên tắc “biến đổi trong thuần nhất” (La variété
dans l'unité). TD
33 -
Câu 1 và câu 3 tương tự nhau, khác nhau về tiết tấu : câu 3
được biến cải từ câu 1 tạo được “sự biến đổi
trong thuần nhất”. -
Câu 2 và câu 4 được lặp lại giống hệt nhau, củng cố tính
thuần nhất của đoạn nhạc. 3.
Bất cứ một chuyển động nào, dù ngắn hay dài, đều bao
gồm hai thời điểm : đó là lúc
khởi đầu và lúc kết thúc.
Lúc khởi đầu là yếu tố động, đòi hỏi năng động,
sức mạnh, cường độ ; lúc kết thúc là yếu tố tĩnh, đòi
hỏi sự nghỉ ngơi, êm nhẹ, buông lỏng. Tiết tấu liên
kết, pha trộn các yếu tố này với nhau sao cho khéo léo,
hợp với ý nghĩa lời ca hoặc hợp với tình ý của chủ đề
bản nhạc. Vì
thế có bản nhạc có tiết tấu hay, có bản nhạc có tiết
tấu kém, đó là do người soạn nhạc khéo hay không khéo
sắp xếp âm thanh lại với nhau. 4.
Trong âm nhạc, lúc khởi đầu người ta gọi là nét vươn lên
hay là bước tiến (arsis), khi kết thúc thì gọi là chỗ
nghỉ ngơi hay là bước lui
(thesis). Bước tiến được phác hoạ bằng cách nâng tay lên,
bước lui bằng cách hạ tay xuống.
bước
tiến
bước lui Như
vậy tiết tấu nhỏ nhất gồm một bước tiến và một bước
lui : nhiều tiết tấu nhỏ liên kết lại thành tiết tấu
vừa, rồi tiết tấu lớn. Trong âm nhạc người ta thường
gọi tiết tấu mạch, tiết tấu chi, tiết tấu câu, tiết
tấu đoạn, tiết tấu bài. 5.
Trong bản nhạc, các bước tiến, bước lui không nhất thiết
có trường độ bằng nhau. Trong nhạc Bình ca, người ta dùng
khi thì bước 2, khi thì bước 3 (bây giờ gọi là phách kép 2
tương đương với loại nhịp 2/8, và phách kép 3 tương đương
với loại nhịp 3/8) pha trộn khác nhau tuỳ theo lời ca hoặc
tâm tình của tác giả, người ta gọi đó là loại tiết
tấu khoáng đạt (xem bài Jésus dulcis : TD 34). (Trong nhạc
mới, biết dùng pha trộn loại nhịp 2 phách với loại nhịp
3 phách một cách thường xuyên, thì cũng gọi đó là tiết
tấu khoáng đạt). TD
34 :
Jésus Dulcis (tiết tấu khoáng đạt của nhạc Bình ca). Trước
thế kỷ 17 chưa có vạch nhịp như bây giờ. Các bước nối
tiếp nhau được phân chia thành từng nhóm khác nhau nhờ các
vạch ngắn, vạch nửa, vạch trọn, vạch đôi : vạch ngắn
thường để phân mạch nhạc,
vạch nửa để phân chi nhạc,
vạch trọn để phân câu
nhạc, vạch đôi để phân đoạn
nhạc hoặc bài nhạc. TD
35 Sau
này, để cho tiện nhìn, người ta thêm các vạch trọn vào trước
chỗ hạ xuống (trước bước lui) của các nhóm tiết
tấu nhỏ nhất. Từ đó phát sinh ra các ô nhịp, nhưng các ô
nhịp ấy không nhất thiết đều nhau. 6.
Khi tiết tấu gồm những bước tiến bước lui đều nhau từ
đầu đến cuối, người ta có thể chia thành những phần
trường độ đều nhau (gọi là ô nhịp đều nhau) và ta
gọi đó là tiết tấu đều
đặn hay tiết tấu chia đều (le rythme mesuré). Trường độ
âm thanh trong ô nhịp được xác định bằng một phân số
chỉ loại nhịp ghi ở đâu bài. (Thí dụ : 2/4 — mỗi ô
nhịp có 2 phách, mỗi phách tương đường một dấu đen). 7.
Loại tiết tấu đều đặn
còn được chia ra hai loại khác : đó là tiết tấu bình thường
và tiết tấu bất thường. 7.1
Tiết tấu bình thường là
tiết tấu gồm các bước hoặc các phách có trường độ đều
nhau. TD
36 7.2
Tiết tấu bất thường là
tiết tấu trong đó các bước hoặc phách ngắn dài, sớm
muộn khác nhau (gọi là đảo phách) hoặc tiết tấu trong đó
thiếu hụt các phần đầu bước hoặc đầu nhịp (nghịch phách).
Trong thực tế, nghịch phách là một loại đảo phách mà
trong đó phần phách bất thường thay vì ngân dài thì được
thay thế bằng dấu lặng. TD
37 :
Đảo phách (Syncope) TD
38 :
Nghịch phách (Contre-temps) 7.3
Ngoài ra còn những hình thức tiết tấu bất thường khác, thường
gặp trong Dân ca và cổ nhạc Việt Nam : -
Đảo phách muộn : TD
39a -
Đảo phách động : TD
39b 8.
Tóm lại, tiết tấu là linh hồn đem lại sức sống cho giai
điệu. “Ai cũng cảm nghiệm được tiết tấu : rất nhiều
người không biết hoà âm, một số người không biết giai điệu,
nhưng không ai là không biết tiết tấu”. Chính tiết tấu
xử lý trường độ âm thanh, tạo nên những bước tiến bước
lui gợi ý cường độ cho âm thanh, làm cho các âm thanh nối
kết với nhau có ý nghĩa. Do đó diễn tấu một bản nhạc có
hồn hay không là do ta có biết
diễn tấu cường độ do tiết tấu gợi ý cho ta hay không.
Ngược lại, nếu ta cứ phách
đầu mạnh, phách sau nhẹ ... như người ta thường dạy,
thì việc diễn tấu sẽ
trở nên máy móc, thiếu tâm
tình, tức là thiếu cái hồn của âm nhạc. B.
tiết nhịp 1.
Trong số 8 chương II, chúng ta đã biết phách là đơn vị
thời gian trong âm nhạc. Nhờ phách
mà ta cảm nhận được sự chuyển động của âm thanh trong
thời gian, giống như các bước chân chuyển động trong không
gian. Có loại phách chia chẵn cho 2. Có loại phách chia chẵn
cho 3. 2.
Khi tiết tấu gồm toàn những phách đều nhau và cùng loại,
người ta có thể chia tiết tấu chung ra thành từng phần
nhỏ đều nhau bằng các vạch nhịp, tạo thành những ô
nhịp. Phần tiết tấu
được chia đều trong các ô nhịp là tiết
nhịp. Để chỉ rõ mỗi tiết nhịp có bao nhiêu phách,
mỗi phách trường độ ra sao, thì người ta ghi ở đầu đoạn
nhạc một phân số gọi là số tiết nhịp (hoặc số nhịp).
(Người ta thường gọi ô nhịp thay thế cho tiết nhịp, nhưng
khi gọi tiết nhịp thì ta chú trọng đến phần tiết tấu
nằm trong ô nhịp, tức chú trọng đến âm hình tiết tấu
nằm trong mỗi ô nhịp). Nhìn vào số nhịp, ta có thể nhận
ra được loại nhịp. 3.
Có hai loại nhịp chính đó là loại nhịp chia 2 và loại
nhịp chia 3. 3.1.
Loại nhịp chia 2 (còn gọi là nhịp nhị phân, hay loại nhịp
đơn) là loại nhịp trong đó mỗi phách có thể chia nhỏ ra
thành 2 phần đều nhau. 3.2.
Loại nhịp chia 3 (còn gọi là loại nhịp tam phân hay loại
nhịp kép) là loại nhịp trong đó mỗi phách có thể chia
nhỏ ra thành 3 phần đều nhau. B.
CÁC LOẠI NHỊP CHIA 3 3.3.
Nhận xét : Các
loại nhịp thường dùng là 2/4, 3/4, 4/4 hay c,
2/2 hay C,
2/8, 3/8, 6/4, 6/8, 9/8. Các
loại nhịp chia 3 dùng các hình dạng dấu nhạc có chấm Các
loại nhịp chia 2 có tử số từ 2 - 3 - 4, còn các loại nhịp
chia 3 có tử số lớn hơn 4, tức là 6, 9, 12. 3.4.
Ngoài ra người ta còn dùng loại nhịp hỗn hợïp, nghĩa
là kết hợp 2 hoặc 3 loại nhịp cùng loại với nhau. Chẳng
hạn : Sự
luân phiên các nhịp 2/4, 3/4 có khi thay đổi không đều đặn,
lúc đó người ta có thể dùng những dấu chấm để phân
chia các loại nhịp như :
4.
Trong khi học xướng âm, để đánh dấu sự chuyển động
của các phách, các bước đi, người ta dùng tay gõ xuống ở
mỗi phách. Nếu là phách chia 2 thì gồm một cái gõ xuống và
một cái nâng lên (
) . Nếu là phách chia 3 thì gồm một cái gõ xuống,
một cái đưa ngang ra và một cái nâng lên
(
). TD
40
5.
Còn khi điều khiển việc trình tấu một bản nhạc, người
ta dùng tay mặt hoặc cả hai tay để vừa xác
định nhịp độ của bản nhạc, vừa phác
hoạ sự chuyển động của các phách, lại vừa diễn
tả cường độ, sắc thái âm thanh. Sau đây là một số sơ
đồ của các tiết nhịp cơ bản thường gặp (của tay
phải), khi diễn tả liền tiếng : Ghi
chú : Phách
đầu thường có hướng đi xuống, phách cuối thường có hướng
đi lên. Trong mỗi phách đều có phần xuống và phần lên,
nối kết lại ta có một đường vòng cung mà chỗ thấp
nhất là chỗ bắt đầu của âm thành. Khi
diễn tả rời tiếng
: các đường phác hoạ sẽ gãy gọn hơn, càng mạnh thì cử
chỉ tay càng nẩy hơn. Sau đây là sơ đồ hết sức thô sơ
để nhớ hướng đi chính của mỗi phách :
6.
Tiết điệu (nhịp điệu
hoặc điệu nhạc) : là một công thức tiết tấu dựa trên
một loại tiếp nhịp nhất định nào đó, thường được dùng
để đệm bằng nhạc khí, thí dụ nhịp điệu Marche, Fox,
Valse, Boston, Rumba, Chachacha, Boléro, Tango, Slow, Twist, Surf ... TD
41 :
(Một số tiết điệu cho đàn Guitare) Có
một số loại nhạc như hành khúc, vũ nhạc, gắn liền với
những tiết điệu nhất định. Còn những loại nhạc khác không
nhất thiết gắn liền với một tiết điệu nào (chẳng hạn
các bài thánh ca), thì có thể có nhiều cách để đệm khác
nhau, không nên loại bài hát nào cũng đem vũ điệu vào mà đệm. TIỂU
ĐỀ ÔN TẬP 1.
Tiết tấu là gì ? 2.
Vai trò của tiết tấu trong âm nhạc ? 3.
Tiết tấu nhỏ nhất gồm những bước nào ? Cường độ
dành cho các bước đó ra sao ? Tại sao ? 4.
Cách phác hoạ bước tiến và bước lui trong tiết tấu
đơn giản nhất : Có phù hợp với tự nhiên không ? 5.
Tiết tấu khoáng đạt là gì ? 6.
Tiết tấu đều đặn (chia đều) là gì ? Có mấy loại
? 7.
Tiết tấu bất thường là gì ? Có mấy loại chính ? 8.
Tiết tấu bất thường đặc biệt thường gặp trong Dân
ca Việt Nam gồm những hình thức nào ? 9.
Tại sao gọi “tiết tấu là linh hồn đem lại sức
sống cho giai điệu” ? 10.
Tiết nhịp là gì ? Số loại nhịp là gì ? 11.
Có mấy loại nhịp chính ? 12.
Vẽ sơ đồ các loại nhịp chính và nêu ra những loại
nhịp thông dụng. 13.
Loại nhịp hỗn hợp là gì ? 5/4, 7/4, 5/8, 7/8 được ghi
thành dấu nhạc như thế nào ? 14.
Cách gõ phách trong xướng âm ? 15.
Khi điều
khiển việc trình tấu, ca nhạc trưởng dùng tay làm gì ? Với
những công dụng gì ? 16.
Vẽ sơ đồ của loại nhịp 2/4 và 3/4 : tay phải đánh
liền tiếng. 17.
Tiết điệu là gì ? Công dụng gì ? 18.
Có nên dùng tiết điệu đệm cho mọi loại nhạc không
? Tại sao ?
|