|
Lời Ca
(Trích từ tài liệu Ca
Trưởng Năm Thứ II, của cố Nhạc sư Hải-Linh)
Tiếng Việt và
nhạc Đơn điệu
Tiếng Việt Nam và nhạc Đa âm
Song song với việc tìm hiểu âm nhạc, người
trình tấu còn phải nghiên cứu kỹ Lời ca để biết được cho mình
một bộ mặt xứng hợp lúc đóng vai trung gian để chuyển đạt ý
tưởng của người sáng tác sang thính gỉa.
Trường hợp Lời ca là ngoại ngữ, Ca Trưởng phải cắt nghĩa cho
Ca Đoàn hiểu ít là ý chính của nó. Cũng nên nhớ là nhiều bài
đọc lời ca không, thì nhạt nhẽo vô vị thế nào, nhưng khi đi với
âm nhạc lại rất hợp, vì thế không nên đánh giá Lời ca riêng
rẽ không có phần nhạc.
Những thứ ngôn ngữ có những đặc điểm đi sát với một
loại nhạc, như La-văn đi với Nhạc Bình Ca, Việt văn đi với Nhạc
Ngũ Âm, vv... Đó là những sáng tác thực thụ, diễn tả được
hết ý, trong đó phần âm nhạc và Lời ca đi sát với nhau như hình
với bóng, bổ túc lẫn nhau, khác hẳn với loại nhạc "quần
quần tây, áo áo ta" (có ý nói việc đặt Lời ca vào Nhạc
Ngoại Quốc), nghe nhiều khi rất gượng ép và nhạo đời.
Riêng trường hợp Tiếng Việt Nam có những nét riêng biệt, nhất
là 5 dấu, ảnh hưởng rất nhiều đến lối viết nhạc từ đơn điệu
đến Đa âm, đa điệu. Ca Truởng cũng cần phải biết.
I. Tiếng Việt và Nhạc Đơn Diệu
Tiếng Việt thuộc loại một vần, có năm dấu nhưng sáu giọng vì
chữ không dấu cũng có một giọng, như: "ai?"
Trên nguyên tắc, mỗi chữ có thể đổi dấu 5 lần. Mỗi lần đổi
dấu là đổi hẳn ý nghĩa.
Chính vì có năm dấu, mà một câu tiếng Việt nói giọng thường,
nghe đã như một câu nhạc thô sơ, chỉ cần một bàn tay khéo léo tô
điểm, có thể trở thành một câu hát mỹ thuật. Nhưng cũng chính
vì mỗi lần đổi dấu là đổi hẳn ý nghĩa, mà nhiều sóng gió đã
xẩy ra trong lãnh vực sáng tác cũng như trình tấu, nên người sáng
tác, Ca Trưởng và Ca Đoàn nên biết vắn tắt mấy điểm sau đây
để đề phòng:
- Dấu đơn, dấu kép
Quan sát Dân Ca Việt Nam, loại Nhạc Ngũ Âm đi sát với tiếng
Việt, thì thấy 5 dấu trong tiếng Việt Nam có thể phân làm 2 loại:
dấu đơn và dấu kép.
- Không dấu, dấu sắc và dấu huyền gọi là dấu đơn, vì chỉ cần
một nốt nhạc thôi, thì chữ mang dấu đơn đã có thể hát rõ
ràng.
- Dấu nặng, dấu ngã và dấu hỏi, gọi là dấu kép, vì thường
phải có từ 2 nốt nhạc trở lên, thì chữ mang dấu kép mới hoàn
toàn rõ ràng khi hát, như câu nhạc sau đây:
Trong 3 dấu kép, dấu hỏi thường được xử dụng "kép"
cẩn thận hơn cả , nhảy từ quãng 2 đến quãng 7. Hai nốt nhạc
càng nhảy xa, chữ có dấu hỏi càng rõ, như chữ "hảo" và
chữ "lẻ" trong câu nhạc trên.
Trong mấy Sáng Tác mới, tác giả không để ý tới tính chất
"kép" của dấu hỏi, nên nhiều người vừa gượng cười
vừa hát như sau:
hay vừa hát vừa thấy nổi gai ốc người lên như:
Ngược lại, dấu hỏi đã được trang hoàng cẩn thận trong một
số Sáng Tác khác; nên khi hát nghe rất rõ:
Hay chữ "nức nở" trong bài "Đêm Tàn Bến Ngự"
của Dương Thiệu Tước được trang hoàng rất khéo.
- Cao Độ của 5 dấu trong Tổng Hợp
Khi lấy riêng ra để so sánh, thì 5 dấu có cao độ khác nhau như:
Dấu sắc cao hơn không dấu và dấu huyền. Tuy nhiên, cao độ không có
vị trí cố định trong một âm giai, như:
Cả 4 vị trí đều rõ ràng và trúng đòi hỏi cao độ của mỗi
dấu, mặc dầu ở 4 vị trí khác nhau trong âm giai Fa.
Trái lại; trong mấy loại đơn sơ như: Đọc vè, hát nói, ngắm lễ,
đọc kinh, chỉ dùng có 2 hoặc 3 âm thanh của âm giai hoặc hệ thống
âm thanh, thì các dấu thường được chọn cao độ nhất định để
thống nhất việc đạo, như:
Nhưng trong Bài hát thực thụ, nhiều khi cao độ của các dấu xê
dịch vị trí rất xa, như:
So sánh mấy chữ gạch dưới có cùng một dấu mà cao độ khác
nhau. Trong tổng hợp câu nhạc, các chữ đó hát lên nghe rõ ràng
cả, tại sao?
Là vì các chữ đó nối kết với nhau tính theo từng Tiết Tấu
đơn hoặc Tiết tấu kép.
Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời Chúa sinh ra
đời Nằm trong hang đá Nơi máng lừa.
Nói tóm: Người sáng tác không những phải phân biệt dấu đơn
dấu kép để viết cho trúng đòi hỏi của mỗi loại dấu, mà còn
phải biết phối hiệp các dấu của Lời ca theo bước đi của Tiết
Tấu nữa.
Trường hợp gặp phải những sáng tác có sự sơ suốt về
những điểm trên, thì dù Ca Đoàn có nhiều thiện chí để thông
cảm đến đâu cũng khó mà cứu vãn được.
[TOP]
II. Tiếng Việt Nam và Nhạc Đa
Âm
Tiếng Việt vắt vẻo với 5 dấu cao thấp rất xứng hợp với nhạc
đơn điệu, nhất là những đơn điệu ngũ âm như các bài Dân Ca
Quan Họ, với những tiếng hát luyến láy rung rinh ngầm bện vào mỗi
chữ. Loại này, nhiều người muốn nghe nó "trần trụi" một
mình, sợ ghép đàn vào sẽ làm loãNg và tho6 kệch hoá những cái
ngân nga sâu kín của lời thơ giọng hát.
Tuy nhiên, từ khi có dịp được tiếp xúa với Nhạc Tây Phương,
người Việt Nam cũng đã tìm đủ cách đưa nhạc Việt từ bậïc
Đơn điệu lên bậc Đa âm bằng cách áp dụng mấy lối viết sau
đây:
- Lối viết hai bè song song:
Vì sự bó buộc của các dấu tiếng Việt, khi có hai bè thì lên
phải lên cả, xuống phải xuống cả. Vì thế, lối viết 2 bè song song
xứng hợp hơn cả. Nhưng thay vì đi song song quãng 4 quãng 5 như lối
viết Organum thế kỷ X, ngày nay 2 bè đi song song các quãng 3, 5, 6 nên
tạm gọi là lối viết Organum Tân Thời.
Thời kỳ đầu, loại Organum Tân Thời này phổ biến rất mạnh và
nghe cũng rất chóng quen tai. Đến nay mọi người đã quan quá độ
nhiều khi tác giả chỉ cần viết cho bè trên, còn bè dưới "anh
em" tự tháo vát lấy, chẳng có gì khó khăn, như:
Khi hát loại 2 bè này, Ca Trưởng không nên dành bè trên cho
tiếng Nữ, bè dưới cho tiếng Nam, kẻo hai bè cách xa nhau qúa, mà
mỗi loại tiếng nên chia 2 bè. Chia như thế hát lên sẽ thành 4 bè,
hai bè Nam sẽ họa lại hai bè Nữ một bát độ, tương tợ nhu lối
viết Organum kép thời xưa.
Lối viết này tuy nghe có vẻ đồ sộ giầu có hơn viết một bè,
nhưng vì người viết đã khai thác quá nhiều mà người nghe đã
quá quen tai, trở ra tầm thường dần dần... nên đó đây có chiều
hướng muốn thoát khỏi khuôn sáo các bè đi song song, nhưng tức thì
tác giả gặp ngay phải sự khó khăn khác: Tiếng Việt bị đổi dấu
và đổi nghĩa như:
Viết như thế, chắc tác gỉa cũng thấy sướng cái tay, mà người
nghe cũng cảm thấy "thay đổi không khí", nhưng khốn nỗi
người hát lại phải "lãnh đủ", tức là phải hy sinh hát
lên những lời xét ra chẳng có nghĩa gì cả !
Cũng có tác giả áp dụng lối viết bán trang hoàng để có cơ
hội giảm bớt nước đi song song của hai bè, như:
hoặc là viết:
Cho đến nay, nhiều Tác giả đã cố công tiến từ lối viết 2 bè
đơn sơ trên đây lên bậc Đa âm thực thụ với lối viết Hòa âm.
- Lối viết Hoà âm:
Lối viết Hoà âm là lối viết cho 4 hoặc 3 bè hợp ca. Thường
bè trên cừng là nhạc điệu hoặc bè chủ chốt. Lối viết này đề
cao sự cấu kết các Hợp âm sao cho vang chứ không để ý nhiều
tới từng bè, nên cũng gọi là "Lối viết hàng dọc"
(Ecriture verticale)
Vì các bè cùng đọc một Lời ca, nên nghe được rõ ràng, rất
xứng hợp với mức độ thưởng thức của đại chúng. Tượng
trưng cho lối viết hàng dọc này là những bài Chorals. Khởi đầu
thường chỉ là những đơn diệu, sau mới được Hòa âm cho 4 bè
Hợp ca, nên cũng gọi là "Lối viết Chorals", với nhữNg nét
đặc trưng sau đây:
- Những bản Chorals thường có cấu trúc câu phương gẫn gọn.
- Nhạc điệu chính thường ở bè trên cùng (soprano)
- Cuối mỗi chi nhạc thường có dấu lưu (fermata)
- Các bè Hợp ca cùng đọc rập ràng 1 Lời ca, nên nghe rõ và có
tính cách đại chúng hơn loại Motet.
J.S. Bach được coi là Thần tượng của loại Chorals với hơn kém
400 bài Hòa âm rất tài tình. Ông còn năng áp dụng lối viết này
trong những tác phẩm lớn (Sự thương Khó Chúa Giêsu theo Thánh Mát
Thêu và Gioan), chen kẽ với những bài viết theo lối Motet. Ngày nay,
những bài bản viết theo tinh thần chorals còn thịnh hành trong các
Giáo đường đạo Tin Lành.
Đây là lo6i viết Hợp ca tương đối dễ dàng, người Á
Châu năng xử dụng với những ngôn ngữ không có độ lên cao
xuo6ng thấp như bài sau đây bằng Pháp văn:
Nhưng thoạt khi cầm bút viết lối Hòa âm này với Lời ca tiếng
Việt, tức thì người viết thấy tê liệt cái tay vì phải đương
đầu với:
- Sự bó buộc lên xuống của 5 dấu tiếng Việt.
- Những đòi hỏi chuyển động khác nhau của các bè Hòa âm khi cấu
kết với nhau.
Làm thế nào dung hoà được đòi hỏi của tiếng Việt và Hòa
âm không phải là chuyện dễ, như:
Quan sát từng bè của câu nhạc trên, người ta thấy người viết
đã thất bại trong sứ mạng dung hoà tiếng Việt và Hoà âm. Vì
đầu mối tội là mỗi bên có những đòi hỏi khác nhau quá như
mặt trời mặt trăng không thể dung hoà được, nên người viết
đã buộc lòng "dẹp" đòi hỏi của tiếng Việt ra một bên,
mà kết quả là:
- Chỉ còn một bè trên cùng theo trúng đòi hỏi lên xuo6ng của
tiếng Việt. Chắc những người hát bè này sẽ sung sướng hát lên
với tất cả linh hồn và xác của con người biết suy luận, vì ý
thức được mình đang hát cái gì. Và như vậy, chỉ có bè này
xứng đáng gọi là "bè của loài người".
- Ba bè dưới, vì không còn theo trúng đòi hỏi của tiếng Việt
nữa, nên đã đổi ý nghĩa hoặc chẳng có nghĩa. Những ai hát 3 bè
này, vì cũng là người, nếu ý thức rõ rệt là mình phải hy sinh
cho "chính nghĩa" Hòa âm, và nhiệm vụ chỉ là trang hoàng cho
"anh em" bè trên, trong vai cảnh vệ đứng giàn hàng hoặc là
búp-bê treo làm cảnh, nên cũng đành gượng hát gượng cười cho
qua.
- Người điều khiển thường chỉ nương theo bè trên cùng mà đánh
nhịp cho vuông vắn, ít khi dám mạo hiểm hát theo 3 bè dưới vì nó
rất khó thuộc.
- Trước tình trạng nhất bên trọng nhất bên khinh này, người viết
cũng như người trình tấu, chẳng có ai lương tâm được yên ổn
cả.
Bị lương tâm cắn rứt miết, người Sáng tác cũng đã cố công
tìm ra nhiều cách để giải quyết tình trạng bế tắc trên.
- Cho các bè dưới ngậm miệng âm, hoặc đọc các chữ âm: A
Ô U. Như thế chỉ là bắt chước nhạc khí, chỉ nên dùng cho thay
đổi mầu sắc.
- Hoặc chỉ viết 3 bè để giảm thiểu số bè búp-bê. Nhưng viết 3
bè nghe còm và không đầy đặn được như 4 bè.
- Hoặc làm Lời ca khác cho một bè đọc như:
- Hoặc chỉ đổi 1 vài chữ để cứu vãn những cái lộ liễu qúa
như:
Khi đọc các chữ khác nhau, như 2 thí dụ trên, ngưòi hát cảm
thấy "dễ chịu" hơn nhưng lại khó thực hiện được sự
phối hiệp Hoà âm.
Tuy tất cả những cố gắng trên đều hợp lý, nhưng vẫn chưa
phải là lối viết lý tưởng cho tiếng Việt Nam. Cho đến nay những
người đã từng cầm bút viết, đều nhận thấy tiếng Việt trong
tình trạng đơn điệu thì rất vắt vẻo và dễ thương, nhưng lại rất
cứng đầu đến độ phức tạp trong tình trạng đa âm. Phải áp dụng
một thứ Hòa âm nào đó cho phép các bè lên thì lên cả, xuống
thì xuống cả mới mong trị được, còn lối Hoà âm cổ điển 4 bè
thì xem ra rất ít duyên nợ với thứ tiếng bẩm sinh ra đã có
khuynh hướng "ở vậy" này.
Biết như thế, nên người Việt cũng đã bỏ dần mộng ước học
Hoà âm cổ điển để viết nhạc Hợp ca Việt nam hoặc để Hoà âm
cho đơn điệu thành 4 bè Hợp ca.
Khó thì ai cũng chịu là khó, tuy nhiên không phải là không có
thể được. Nếu biết cách mà nương chiều thì rồi cũng êm cả.
Nhưng đó là chương trình khảo sát của Ca Trưởng năm thứ III. |